Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

Bac Ho mot tinh yeu bao la

VỀ VIỆC HỌC TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

VỀ VIỆC HỌC TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. Chào anh Thắng! Tôi đã đọc liền một mạch bài viết khá dài của GS.Tương Lai, bàn về phương pháp luận nghiên cứu và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một bài viết được, có những ý tưởng được, giúp chúng ta thấy được nhiều vấn đề, trong qúa trình diễn ra cuộc vận động học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Không hiểu tại sao tới tận bây giờ, tôi vẫn còn nhớ một câu của GS.Menxten(Nga), nhận xét về Hồ Chí Minh vào năm 1924 (xin nói rõ là tôi đọc được câu này vào năm tôi đang học lớp 9, tại Trường cấp 3 Quỳnh Lưu 1- sơ tán ở Quỳnh Ngọc). Câu ấy đại khái thế này: “Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đang toát ra một cái gì đó, không phải là văn hóa phương Đông, cũng không phải là văn hóa phương Tây, mà đó là văn hóa Tương lai”. Có lẽ điều nhận xét này của Menxten, chúng ta không cần phải bàn cãi nữa. Chính ông Tương Lai cũng dẫn ra hình ảnh Hồ Chí Minh ngắt một bông hồng trong vườn Phủ Chủ tịch, tặng một người phụ nữ Pháp, rồi lại dẫn ra hình ảnh Hồ Chí Minh nâng chén nước chè xanh, uống với những người nông dân, nhằm chứng minh sự hòa nhuyễn hai nền văn hóa khác nhau trong Hồ Chí Minh. Chi tiết dẫn ra này của ông Tương Lai, khiến tôi nhớ lại những cuộc viếng thăm Hồ Chí Minh trong tù của bà vợ ông toàn quyền Anh tại Hồng Kông. Luật hình chỉ cho phép gặp gỡ trong 15 phút. Vậy thì trong 15 phút ấy, Hồ Chí Minh đã nói gì, mà có thể chinh phục được một bà mệnh phụ phu nhân thuộc dòng dõi quý tộc Anh, khiến bà ấy phải nói chồng cắm cờ Toàn quyền Anh lên tàu, đưa Hồ Chí Minh ra tận hải phận quốc tế an toàn? Tất nhiên, đó phải là sự tài hoa rất Tây Phương của Hồ Chí Minh . Còn chất Đông Phương ở Hồ Chí Minh, thiết tưởng tôi không cần phải dẫn thêm ra ở đây nữa. Đó chính là sức mạnh chinh phục của Hồ Chí Minh, với rất nhiều giai tầng khác nhau, không chỉ ở Việt Nam mà còn cả ở thế giới. Xuất phát từ những dẫn luận đó, tôi đồng ý với ông Tương Lai, khi vận động học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta trước hết phải học tập những đức tính trong con người hành động của Hồ Chí Minh, chứ không nhất thiết bất cứ điều gì thuộc về Hồ Chí Minh, cũng cứ phải tìm cách thần thánh hóa lên thành hệ thống lý luận, tư tưởng luận của Hồ Chí Minh về Cách mạng, về quốc gia dân tộc- điều mà chính Hồ Chí Minh cũng không thừa nhận, không tự cho mình là nhà tư tưởng, mà chỉ tự nhận là học trò của Các Mác và Lê Nin. Thưa anh, hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng, việc tổ chức học tập tư tưởng Hồ Chí Minh của chúng ta, là quá tốn kém và không có hiệu quả. Tôi sẽ không dám bàn sâu về vấn đề này, vì sợ phải đụng đến những vấn đề rất phức tạp trong nhận thức. Nhưng những điều mà chúng ta nhìn thấy, đã và đang diễn ra trong đời sống xã hội, quả là rất khó giúp chúng ta thuyết phục được được mọi người tin theo. Ý thức hệ là do giai cấp cầm quyền đặt ra, để bảo vệ vị trí cầm quyền của nó. Điều đó cho thấy, chính trị là biểu hiện tập trung cao nhất các lợi ích kinh tế của giai cấp. Đảng Cộng sản của chúng ta là Đảng của giai cấp công nhân, tức nhiên Đảng phải xuất phát từ các quyền lợi kinh tế của giai cấp công nhân. Song nước ta lại là một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu, đại đa số 90% dân cư là nông dân (trước 1945), còn giai cấp công nhân thì rất èo uột, cho nên có một thời chúng ta đã coi bần cố nông là thành phần cơ bản, thành phần sức mạnh của Cách mạng. Chúng ta đã vùng lên đánh đổ giai cấp địa chủ ở nông thôn một cách quyết liệt đến mức sai lầm nghiêm trọng. Chúng ta đã tập trung tiêu diệt giai cấp tư sản cũng quyết liệt và sai lầm không kém. Điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của Đảng, mà rõ ràng người chịu trách nhiệm cao nhất là Hồ Chí Minh. Chính Hồ Chí Minh cũng đã tự kiểm điểm nghiêm khắc về điều này, đã đứng ra xin lỗi trước quốc dân. Bởi vậy, trước sự bùng nổ của thông tin toàn cầu, chúng ta không thể không đề cập đến vấn đề này, trong việc tuyên truyền và giáo dục toàn dân, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh. Tới đây, một lần nữa tôi thống nhất với ông Tương Lai, rằng chúng ta không nên biến con người rất Người của Hố Chí Minh, thành con người huyền thoại, con người thần thánh, mà hãy để toàn dân thấy rằng, Hồ Chí Minh với dân tộc này là Bác Hồ. Hồ Chí Minh là con người của hành động, tất nhiên cũng giống các tiền nhân trong lịch sử, không thể không mắc những khuyết điểm nhất định- mà theo tôi là cũng không nên đổ thừa cho hoàn cảnh lịch sử. Con người dũng cảm, con người tranh đấu cho lợi ích của dân tộc và quốc gia trong Hồ Chí Minh, là con người của sự vươn tới, con người của đổi mới, không và không hề bao giờ là con người của sự rập khuôn máy móc. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, chính là học tập đạo đức và tác phong làm việc của con người Hồ Chí Minh. Học tập ý chí kiên quyết đấu tranh cho độc lập tự do, cho hòa bình và thống nhất nước nhà của Hồ Chí Minh. Và bởi vì chính điều này, chúng ta cần cho người dân thấy và hiểu đúng con người thật, con người bản năng, con người lãnh tụ của Hồ Chí Minh. Con người luôn đấu tranh cho giải phóng, giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức bất công, giải phóng con người khỏi mọi sự nô lệ, cả thần quyền và chính quyền, giải phóng con người khỏi mọi hủ tục lạc hậu, mọi tệ nạn xấu xa, giải phóng con người khỏi đời sống nghèo nàn, cả về vật chất và cả về tinh thần… Gần đây báo chí Trung Quốc đã công bố nhiều sự kiện về cuộc đời hoạt động Cách mạng của Hồ Chí Minh thời kì ở Trung Quốc. Thông tin mạng, mà đặc biệt thông tin mạng trên blogs, là bộ phận rất nhạy cảm. Chúng ta sẽ phải giải quyết vấn đề này như thế nào, trong cuộc vận động học tập rất lớn này?! Có lẽ cách tốt nhất, là chúng ta nên bình thường hóa nhận thức về một con người kiệt suất thật sự của thời đại, cũng trước hết là một con người như tất cả mọi con người; nhưng con người đó là con Người Hồ Chí Minh, con người thật, chứ không phải là con người thần thánh. Thưa anh Thắng. Biết anh cũng là một blogger rất xông xáo trên nhiều lĩnh vực ngóc ngách của cuộc đời, khi thấy anh post bài viết của GS.Tương Lai lên blogs của anh, tôi hiểu là anh muốn gởi thông điệp đến bạn đọc về vần đề gì; và tôi đoan chắc rằng, anh cũng có đọc một entry trong blogs của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, trong đó có nói đến đời sống riêng tư rất đời thường của Hồ Chí Minh. Tôi nghĩ một người luôn năng động và xông xáo như anh, chắc anh đã biết được rất nhiều những thông tin về con người và cuộc đời của Hồ Chí Minh. Đến đây, tôi phải xin thưa thêm với anh rằng, khi chúng ta nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh, thì chúng ta chỉ gọi Người là Hồ Chí Minh, chứ không nên gọi là Bác Hồ hay gọi là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chức vị có nhiệm kì, tuổi tác có thời gian, những tư tưởng vĩ đại thì tồn tại mãi. Hiện tại, nhiều cá nhân, nhiều thế lực thù địch đang tìm cách hạ bệ “thần tượng Hồ Chí Minh”. Khi viết là “thần tượng Hồ Chí Minh”, dù là với mục đích hạ bệ, chính họ cũng đã phải công nhận tên tuổi, sự nghiệp và những cống hiến của Hồ Chí Minh cho nhân loại, cho lịch sử. Nhưng ít nhiều, họ cũng đã tác động khá mạnh đến một bộ phận công dân Việt biết đọc tiếng Việt, biết lên mạng sục sạo thông tin mỗi ngày. Con người Hồ Chí Minh trong thời đại bùng nổ thông tin này, đã hiện ra dưới nhiều góc cạnh khác nhau, người đọc không có bản lĩnh chính trị nhất định, rất dễ dẫn đến những nhận thức khác nhau về Hồ Chí Minh. Rõ ràng là chúng ta không thể, và thực sự là không thể, ngăn chặn được những thông tin đang bùng phát rất mạnh trên mạng internet toàn cầu. Chính vì lẽ đó, có lẽ chúng ta, nói như GS.Tương Lai, không nên cọng thêm vào cho Hồ Chí Minh những huyền thoại về một bậc vĩ nhân “siêu Thánh”, mà nên để cho mọi công dân nước Việt thấy rằng, lãnh tụ kính yêu của mình, đằng sau con người của công việc, con người của Cách mạng, cũng là một con người rất Người, như chính đồng bào của Người. Trở lại ý kiến của những người cho rằng việc vận động học tập tư tưởng Hồ Chí Minh của chúng ta là quá tốn kém và không có hiệu quả, tôi nghĩ rằng, không có bất cứ một công việc nào toàn hảo, mà đều có những mặt trái của nó. Nếu song song với cuộc vận động này, mà chúng ta không vận động có hiệu quả việc chống tệ tham nhũng, chống tệ quan liêu, còn để xãy ra những vấn đề mà tự thân nó, người dân ai cũng biết, thuộc về những trọng án cần giải quyết triệt để bằng “chính luật”, chúng ta rất khó tạo được niềm tin đạo đức ở dân chúng. Tôi nhớ các cuộc Cách mạng- mà Tổng bí thư Lê Duẫn lúc đương thời từng nói là “đại Cách mạng”- của Trung Quốc, như Cách mạng Văn hóa, Cách mạng Đại Nông trang ở nông thôn… họ đã làm được những gì, để tư tưởng của Mao Trạch Đông trở thành “Trước tác” bỏ túi áo ngực, của mỗi một người dân, trên đất nước chiếm một phần năm dân số thế giới này. Có lẽ là người luôn quan tâm tới thời cuộc, thì anh cũng đã biết rất rõ. Chim sẻ chết như ngã rạ, tất nhiên chuột phải sinh đàn sinh đống; ấy là tôi không muốn nhắc tới chuyện xãy ra ở quãng trường Thiên An Môn và sau này là pháp luân công. Trong bài viết của mình, ông Tương Lai có nhắc đến tư tưởng hòa bình luôn thường trực trong Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh không bao giờ coi vấn đề giải quyết vấn đề hòa bình bằng họng súng, mặc dù dân tộc này(Việt Nam) luôn phải đứng lên bảo vệ hòa bình bằng bạo lực của họng súng. Vua Thái Lan từng nói với một quan chức Chính phủ của chúng ta rằng: “Các ngài tự hào vì đã đánh thắng ba đế quốc lớn, còn chúng tôi thì tự hào vì không phải đánh với một đế quốc lớn nào”. Tôi nhắc câu nói này, tuy nhiên tôi vẫn đánh giá rất cao, giá trị cách mạng, của hai cuộc kháng chiến thần thánh của chúng ta; mặc dù tôi hiểu, cái giá mà chúng ta phải trả là quá đắt, cho độc lập tự do, cho hòa bình thống nhất của chúng ta. Thưa anh Thắng! Nếu chúng ta không giải quyết triệt để những cái được gọi là gốc rễ, khi kiến tạo mặt bằng hạ tầng cơ sở của chúng ta, tức nền kinh tế vĩ mô và vi mô của chúng ta, liệu chúng ta sẽ vận động người dân tin tưởng vào điều gì, khi mà tham nhũng tham ô xãy ra tràn lan, một cách dường như có vẻ được bảo kê từ những thế lực nào đó. Tuổi trẻ của chúng ta từng được coi là tuổi trẻ “thế hệ Hồ Chí Minh”. Chúng ta có quyền tự hào về việc chúng ta đã góp phần nào đó, cùng với đồng bào của mình, chiến đấu cho lý tưởng tốt đẹp mà Hồ Chí Minh đã đặt ra, đã lãnh đạo cả dân tộc chiến đấu hết mình cho lý tưởng đó. Dù không và không hề bao giờ muốn, nhưng rõ ràng, lịch sử của dân tộc chúng ta, trong suốt bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, chúng ta đã phải buộc viết nên bằng máu và nước mắt, của những cuộc chiến tranh giải phóng. Thế hệ trẻ thời đại @ hôm nay, cần phải được học về đạo đức cách mạng, trên một nền tảng giáo lý(nếu có thể gọi như thế) về đạo đức Cách mạng, khác với thế hệ chúng ta chứ. Lịch sử là vận động, vậy thì mọi giá trị lý luận, tất yếu cũng phải vận động theo đó để tự hoàn chỉnh, tự đáp ứng thích nghi với nhận thức của thời đại. Mọi giá trị triết học, kể cả của Đức Phật cũng như của Jesu Chrit, cũng không thể là bất biến mà tồn tại được. Khi con người đã khám phá ra thế giới Hạt và thế giới Phản Hạt, tất nhiên cũng sẽ có những tư tưởng mới, phản lại tư tưởng cũ(như ông Trần Mạnh Hảo đã bàn về thơ và phản thơ); như vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, phải được đặt ra trên một bình diện hoàn toàn mới, khi mà vấn đề hội nhập toàn cầu, đang được đặt ra như là một tất yếu của loài người, trên hành tinh trái đất của chúng ta. Tôi nhớ những bài học về luân lý đạo đức mà tôi được học từ thời vỡ lòng ở thành phố Vinh, không phải là một cái gì to tát, lớn lao và ghê gớm cả, ngược lại nó rất đời thường, như ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ăn cơm phải nhớ người trồng lúa(suốt một đời ăn hạt gạo nhân dân, mà không biết thế nào là cây lúa- Chế Lan Viên). Ở lứa tuổi chúng tôi lúc đó(xin phép anh Thắng, tôi lại phải nhắc tới bốn câu thơ của ông Nguyễn Duy mà tôi rất thích: “Thế hệ chúng tôi những đứa bé chăn trâu, đầu tóc vặn củ khoai củ sắn, thầy giáo dạy nước mình giàu lắm, lớp lớp trẻ con cứ thế học thuộc bài), chúng tôi làm sao hiểu được thế nào là chủ nghĩa xã hội; bởi vậy chúng tôi tiếp thu nền tảng giáo dục đạo đức luân lý từ 5 điều dạy của Bác Hồ(yêu tổ quốc yêu đồng bào, học tập tốt lao động tốt, đoàn kết tốt kỉ luật tốt, giữ gìn vệ sinh thật tốt, khiêm tốn thật thà dũng cảm) rất đơn giản, qua các bài học về những con người cụ thể, trong đó có con người sinh động, con người hành động Hồ Chí Minh. Từ đó tôi suy ra, chúng ta nên vận động học tập tư tưởng đạo đức Cách mạng của Hồ Chí Minh, từ những bài học cụ thể của con người sống để làm Người, chứ không phải từ những hệ thống lý thuyết(sẽ xám màu theo thời gian, nói như Gớt) quá ư là lớn lao- nhất là đối với thế hệ trẻ. Thưa anh Phan Chí Thắng. Bài viết của tôi cũng đã dài, cũng là xuất phát từ việc đọc một bài viết của GS.Tương Lai, mà anh cho đăng tải trên blogs của anh. Tất nhiên tôi không hề nghĩ là tôi sẽ viết thành một bài viết, về một vấn đề quá lớn, đến mức phải vận động trong cả nước, thành một cuộc vận động lớn, do cả một hệ thống tổ chức lớn đứng ra tổ chức, chỉ đạo. Tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng, Hồ Chí Minh trước sau như một là một con người, nhưng đó là con người của Cách mạng, con người của dân tộc và dân sinh, con người của hành động, hãy để cho chúng ta học tập đạo đức Hồ Chí Minh, từ những bài học sống để làm Người của Người và của mọi con người đang sống để làm Người. Cám ơn anh đã chọn giới thiệu bài viết của GS.Tương Lai, vào đúng thời điểm mà bài viết ấy cần phải được giới thiệu thật rộng rải! HTT

TÔI GỌI TÔI ƠI Hồ Tĩnh Tâm

TÔI GỌI TÔI ƠI Hồ Tĩnh Tâm Khi tôi nhìn lên bầu trời hoa phượng nở Đất nước gọi về nức nở một vần thơ Tổ quốc yêu thương từ bấy đến giờ Tôi rụng xuống riêng tư thành sỏi đá. Chợt giật mình, chiều xôn xao nắng hạ, Chiến tranh qua rồi, buốt nhức vẫn còn đây. Đàn bò lang thang những nẻo phố hanh gầy, Nhịp điệu tôi đi: một, hai, ba, bốn; Em xa xôi, triết lý thành lộn xộn Bão mặt trời- động đất- khắp nơi nơi. Nhung nhớ ngày xưa. Vời vợi tôi ơi! “Một tấm lòng” ru tôi trong cuộc sống, Ảo ảnh cả. Đừng ngu, chìm bến mộng; Đạn réo, bom gầm, còn lại tấm thân tôi. Quẳng hết đi! Nỗi nhớ đã xa xôi, Vòm trời chiều nay đỏ bầm phượng đỏ. Không phải gió, nhưng lòng tôi là gió Sao lang thang thoát được chốn vô cùng! Chuyến xe đời tàn tạ khúc mung lung Tôi hát với bão bùng dông tháng hạ; Bài thơ khép trong buồn không xa lạ Tôi gọi tôi ơi… năm tháng đã phai tàn. HTT

Thứ Hai, 11 tháng 5, 2015

CON CỦA BIỂN Truyện ngắn: Hồ Tĩnh Tâm

CON CỦA BIỂN Truyện ngắn: Hồ Tĩnh Tâm Theo lời giới thiệu của Lê Tân, tôi cùng người bạn là phóng viên nhiếp ảnh, tìm về Nhà Mát- Trường Long Hòa. Trời sáng trăng hạ tuần nên chúng tôi ra đi từ ba giờ sáng. Qua phà Láng Chim lúc mặt trời đã chín ưng ửng, chạy thêm chừng mười mấy phút thì thấy biển. Ngực biển căng vồng, thơm mặn mòi mùi muối . Vầng thái dương đã nhô khỏi mặt nước khoảng gang tay, đỏ rực như qủa cầu thép vừa tôi trong lò lửa. Con đường ven động cát đang lúc trải nhựa, lổn nhổn đá hộc, đá dăm, chúng tôi đành phóng xe theo mép sóng. Cát mịn và dẻ cứng. Biển vắng và mát lạnh. Những hàng dương dường như vẫn còn thiu thiu ngủ. Chạy khoảng vài cây số, chúng tôi gặp một người đàn ông ngồi trên yên Honda 67 hút thuốc, liền ngừng lại hỏi đường về Nhà Mát còn bao xa. Ông già nheo mắt nhìn tôi một chặp rồi hỏi: - Mà hai chú về Nhà Mát tìm ai? Nghe tôi trả lời tìm Ông Được, người đã dùng súng trường mát bắn hạ chiếc OV10 trên động cát vào năm 1961, ông già mời tôi một điếu thuốc giồng, nói: - Cứ đến Nhà Mát, leo qua động cát, theo lộ đá tới ngã ba, quẹo phải chạy khoảng cây số, hỏi ông Được, ai cũng biết. & Tiếp chúng tôi là một người đàn bà cao lớn, da màu bánh cam, tóc bạc trắng, nhưng ánh nhìn từ đôi mắt to ngoại cỡ vẫn còn rất linh hoạt. Biết chúng tôi đi lấy tư liệu viết bài, bà cười: - Ổng ra biển kéo lưới. Mấy chú ngồi uống trà, chút xíu ổng về tới, chừng đó lai rai với ổng mà hỏi chuyện. Chuyện đánh đấm ở Trường Long Hòa sắt thép này thì vô thiên lủng, người già xứ này, ai cũng có tới mấy bồ truyện để kể. Tôi với anh bạn tranh thủ lúc đợi chủ nhà, kéo nhau đi săn ảnh. Lúc trở lại đã thấy trên bộ bàn gỗ dầu cũ kĩ bày ê hề mồi nhậu. Toàn là cá biển. Nào là cá đối chiên, cá đối nấu chua, cá khoai nấu mẳn, cá dứa kho lạt. Lúc Hai Được xuất hiện, tôi giật mình nhận ra đó là người đàn ông chúng tôi gặp trên biển. Hai Được cười hề hề: - Duyên tao ngộ phải hông? Để tui ới Tám Quắn qua nhậu cho vui. Tay bắn bá đỏ bá phát một thời. Hơn tui hai tuổi, nhưng còn nhớ vanh vách chuyện hồi đó. Dân Duyên Hải Trà Vinh uống rượu như thần, càng uống càng tỉnh, càng hăng lên kể chuyện tào lao thiên địa. Nhờ vậy tôi biết được khá kỹ lưỡng Hai Được là ai. Hai Lá dân gốc ngoài Quảng Ngãi, gia đình đã mấy đời sống trong rừng lá tối trời. Đến đời ông là đời thứ chín mà vẫn trắng tay trong cảnh cùng đinh, nghèo tới mức không có tiền cưới vợ. Một lần vào rừng thăm bẫy cạm, Hai Lá mừng hú khi thấy con heo rừng gần hai trăm ký bị mắc bẫy. Con heo chắc cả đêm giãy đạp tìm cách thoát thân, nên coi mòi đã kiệt sức, đã chịu thúc thủ nằm phủ phục, mồm sùi bọt mép một đống trắng toát. Vậy mà vừa nhìn thấy người, nó liền quật sức vùng dậy, thở hồng hộc, mắt đỏ vằn những tia máu. Hai Lá lựa thế bước tới, tìm cách phóng ngọn mác đâm cho nó chết; nhưng ông bước tới phía nào con heo cũng quay về phía đó, chỉa hai cái răng nanh nhọn hoắt như hai lưỡi kiếm đe dọa. Xoay trở một hồi, Hai Lá cũng phóng được một mũi mác vào ức trái con thú. Con thú hộc lên dận dữ, chồm sức lao tới, giật tung được khúc cây cặm to như cột nhà. Vậy là cuộc hỗn chiến giữa người với thú trở nên quyết liệt. Hai Lá một mình một ngọn mác sắc lẻm. Con heo bị vướng cột cặm, nhưng vẫn còn lợi hại với sức vóc ô dề và cặp răng nanh nhọn hoắt. Lợi thế thuộc về người. Hai Lá vốn dân võ nòi nên chủ động đâm dính thêm mấy mũi mác vào con heo. Nhưng do một lần sơ suất, Hai Lá nhảy vướng gốc cây, té lăn ra bãi chiến trường bị cày nát. Con heo chỉ chờ có vậy, nó lao tới húc văng đối thủ lên cao cả nửa mét. Vết húc dính gần háng trái, làm rách bìu giái của Hai Lá tới lòi cả trứng ra. May cho ông là con heo mất qúa nhiều máu, đã kiệt sức tới mức gần chết đến nơi. Sau cú húc trời đánh ấy, nó xoãi chân ngồi phủ phục, nhìn lom lom đối thủ. Hai Lá lết ra xa, cắn răng chịu đau, thả ngọn mác kế người phòng hờ. Tranh thủ lúc con heo rừng không tấn công, ông xé vạt áo buộc nối lại để băng đùi cầm máu. Với kinh nghiệm lội rừng gài bẫy từ đời ông cha để lại, nhìn mắt con heo, Hai Lá biết chắc nó sắp chết tới nơi, nên dù bị thương rất nặng, ông vẫn thấy vững trong bụng. Qủa nhiên chỉ sau vài phút, con heo bỗng ngật đầu sang một bên, lật nghiêng xuống đất, lịm đi rồi chết. Đúng lúc đó có hai cha con người câu rắn xuất hiện. Họ dùng xuồng câu chở Hai Lá về nhà, dùng thuốc lá bó vết thương cho ông, dùng chỉ may khâu bìu trứng cho ông. Cũng từ cuộc hạnh ngộ này, người cha cảm sức vóc và tính khí mạnh mẽ của Hai Lá, đã gã cô con gái một cho ông. Nhờ vậy mà Hai Được ra đời. Được như là được của trời, bởi nếu không có chuyện rách bìu trứng, dễ gì Hai Lá có cơ hội ở lại nhà cha con người câu rắn tới mấy ngày, để thành duyên, thành số, thành phận kiếp đời người. Tới Hai Được lấy vợ cũng vậy. Lần đó ông với người bạn móc hang được mấy con chèng heng, bèn lượm phân bò khô nhúm lửa nướng mọi, rồi leo lên động cát, ngồi xuống kế lùm lau cù ngồi nhậu. Bấy giờ đã gần sáu giờ chiều, vậy mà không hiểu sao có chiếc OV10 từ hướng Trà Vinh bay xuống, lượn tới lượn lui trinh sát. Sẵn cây trường mát, Hai Được chong súng lên trời, đế cho nó một phát bỏ ghét. Ai dè chỉ một viên đạn mà chiếc máy bay xịt khói, bay cà niễng cà niễng rồi rớt ùm xuống biển Nhà Mát. Hai tay súng của xã sướng qúa, bỏ cuộc nhậu trở về cứ. Khi đã trượt xuống khỏi động cát, Hai Được bỗng đổi ý, muốn ghé về thăm cha gần cửa biển Đông Hải. Sẵn trong túi còn mấy ngàn bạc, ông lội tắt đến xóm muối, mua cặp rượu Anít vuông, gói trà, mấy bọc kẹo đậu phộng. Khi lội trở lại động cát, tính đi cặp theo mé biển về nhà, thì pháo bầy ngoài hạm đội bắn xối vào như giàn nhạc thổi lửa. May cho Hai Được là lúc ôm súng lăn xuống mí động, ông rớt trúng miệng một căn nhà âm trong lòng cát. Chui vào, thấy có người phụ nữ ô dề ở trỏng. Vừa thấy Hai Được, người phụ nữ cao to đã hỏi ngay, có phải ông là người bắn rớt chiếc OV10. Biết chuyện, bà ta tỏ ra khâm phục lắm. Chừng dứt trận pháo giàn, người phụ nữ nói: - Trời tối, lại đang nổi dông, ông không ngại thì ngủ lại, hừng đông rồi về. Biết đường còn dài, lại sắp nổi mưa tới nơi, Hai Được liền gật đầu. Ông trời hôm đó cũng cắc cớ, trút mưa rần rỉ cả đêm. Không biết làm gì, Hai Được lôi ve rượu ra uống, lôi mấy bọc kẹo ra mời bà chủ. Bà chủ nheo mắt nhìn ông, cười cười mà nói: “Bộ ông coi thường tui phụ nữ, không mời rượu sao? Không mời thì uống rượu suông, mời thì tui nướng khô cá khoai, nấu mẳn cá dứa cho nhậu”. Vậy là họ thành cặp bài trùng, vừa uống vừa kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện đời. Khi khui tới chai thứ hai, Hai Được nổi hứng, cầm chai rượu lên tu rồi nói: “Nãy giờ tui với bà hiểu nhau qúa trời rồi, giờ tui hỏi thiệt, bả chịu tui không, chịu thì mình tính theo kiểu du kích cho rồi”. Vậy là họ thành thân ngay trong đêm. Lần đầu tiên được hưởng hạnh phúc đời người, hai người quấn lấy nhau mấy ngày; chừng người bạn ra tìm, Hai Được mới chịu chia tay vợ. Chia tay hôm trước, hôm sau Hai Được đã trở lại, cho bà vợ không đám cưới hay rằng, chuyến này ông phải đi xa, bà thu xếp về Đông Hải với cha mẹ ông mà sống. Hai Được nhìn tôi, hỏi: - Mầy biết chuyến đó tao đi đâu không? Đi Ma Cao, đi Quảng Đông bằng tàu cây 15 tấn nghe mầy! Đời du kích miệt biển mà cũng có lần biết quê xứ người ta ở xa lơ xa lắc nghen mầy! & Con tàu không số có sáu người, với cái la bàn cũ và một số lương thực thực phẩm, ra khơi được chín ngày thì gặp bão. Gió xoáy giật cánh buồm vải rách tơi tả. Sóng lưỡi bủa đập bể be tàu tanh banh nhiều chỗ, rồi đánh dạt vào một hải cảng sầm uất. Đó là xứ Ma Cao. Người xứ này giúp đoàn thủy thủ giả danh tàu buôn miền Nam vá buồm, sửa tàu, rồi giúp họ về Quảng Đông. Đến Quảng Đông, họ được gặp cán bộ lãnh sự quán Việt Nam, được hướng dẫn về cảng Hải Phòng. - Hai chú biết không? Là lính quèn mà tui được gặp Bác Hồ, gặp đại tướng lừng danh Võ Nguyên Giáp, gặp cả thủ tướng Phạm Văn Đồng, gặp luôn cả tư lệnh hải quân; lại còn được sống ở thủ đô cả năm trời để học văn hóa. Nếu không có chuyến đi ấy, dễ gì tui biết chữ, biết làm tính, dễ gì tui tự nhiên từ du kích thành bộ đội chủ lực, thành chiến sĩ hải quân Việt Nam. Đúng là Hai Được đích danh là lính Trường Sơn trên biển từ thế hệ đầu tiên. Ra Bắc với con tàu cây 15 tấn, họ trở về với con tàu sắt 55 tấn đầy súng đạn. Rồi sau đó là những con tàu 100 tấn chất đầy vũ khí. Nơi họ đổ hàng là những cánh rừng bạt ngàn ở U Minh đất đen, nước đen. Suốt mấy năm trời như vậy, dù nóng ruột chuyện nhà, nhưng Hai Được cũng không thể nào về thăm cha mẹ, thăm vợ; công việc đòi hỏi phải bí mật tuyệt đối; đến cả tên họ từng người cũng phải thay đổi, nấp danh dưới những căn cước giả của chính quyền Sài Gòn. Khi được Hai Thắng cho biết sẽ có chuyến hàng đặc biệt vào Duyên Hải, Trà Vinh theo cửa Đông Hải, Hai Được liền làm đơn xin cho theo chuyến hàng ấy. Con tàu nương theo mưa gió, cặp vào rừng lá trót lọt. Bộ đội và du kích đến chuyển vũ khí một cách lặng lẽ ngay trong đêm. Ngồi trên bờ, nhìn thấy một người phụ nữ cao to vác thùng đạn K2, linh tính mách Hai Được đó là vợ mình. Ông lần lần chạy theo để nhìn cho rõ mặt. Khi biết chắc là người vợ không đám cưới của mình, lòng dạ Hai Được xốn xang như có lửa đốt, chỉ muốn chạy à tới ôm chần lấy mà hỏi chuyện nhà, hỏi chuyện quê hương; nhưng ông biết làm vậy là vi phạm kỷ luật chiến trường. Ngay cả chuyện hỏi thăm người khác xem vợ mình đã có con chưa ông cũng không dám. Kỷ luật của thủy thủ tàu không số rất nghiêm ngặt, nỗi nhung nhớ, yêu thương chỉ biết trào lên thổn thức mà không thể khóc được, không thể bày tỏ được. Chuyến hàng thứ hai cho Trà Vinh cũng vào theo cửa Đông Hải trong một cơn dông mù mịt. Nhưng lần này, dù căng mắt nhìn xuyên qua bóng đêm dày đặc, Hai Được cũng không hề nhìn thấy vợ. Lòng ông ngổn ngang biết bao tâm sự, lo lắng. Chiến trường ác liệt quá, vợ ông là du kích, biết đâu đã ngã xuống trong một trận đánh nào đó. Suốt đêm ấy, và suốt hai đêm neo tàu đợi dông để thoát ra biển, Hai Được nằm chong mắt không thể nào ngủ được. Ruột gan ông xốn như có kiến bò, lúc nào ông cũng phấp phỏng cầu khấn cho vợ mình đang chiến đấu ở những nơi mà ông nghe súng nổ dữ dội. Bởi lẽ mỗi khi có tàu vào đổ hàng, bộ chỉ huy chiến trường bao giờ cũng lệnh cho chủ lực đánh lớn ở đâu đó để câu kéo lực lượng địch, để đảm bảo bí mật và an toàn cho hàng, cho tàu. Điều mà ông thao thức mong muốn tới cháy lòng, là vợ ông có sanh được cho ông một thằng con trai thật to, thật khỏe hay không. Chuyến hàng thứ ba cho Trà Vinh phải lênh đênh đợi ngoài khơi xa tới mấy ngày mà không thể nào vào lọt được cửa biển, bởi lẽ tình báo Hoa Kỳ đã đánh hơi thấy vũ khí của ta đang được tuồn vào Trà Vinh theo đường biển, nên bố trí tuần tra phòng thủ các cửa biển rất chặt. Tới ngày thứ năm, lợi dụng một cơn mưa mù mịt, thuyền trưởng quyết định cho tàu vào cửa biển lúc nửa đêm. Nhưng khi tàu còn cách cửa biển hơn cây số thì bất giác phát hiện tàu địch bí mật mai phục. Con tàu tức tốc trở lái ra khơi, nhưng không ngờ từ ngoài khơi có hai chiếc tàu chiến bật đèn pha, xé sóng lao tới tấn công. Rồi tàu địch trong cửa biển lao ra. Thế chiến đấu không hề cân sức, buộc thuyền trưởng phải ra lệnh hủy tàu. Thủy thủ xuống thuyền nhẹ tìm cách thoát vào bờ, còn thuyền trưởng ở lại vặn đồng hồ hẹn giờ châm điện, cho nổ khối thuốc quyết định số phận con tàu. Chiếc thuyền nhẹ vừa tách tàu vài trăm mét đã bị trọng liên từ tàu địch bắn xối xả, chẳng mấy lúc đã bị dập nát, lọt nước chìm xuống biển. Thủy thủ tản mát, mất hút vào biển thẳm đen ngòm dông gió. Hai Được vừa bơi vừa lo cho số phận của người thuyền trưởng, người đã cùng anh gắn bó trên nhiều chuyến vượt biển ra Bắc chở vũ khí, hàng hóa vào Nam. Hủy tàu cũng có nghĩa là quyết tử, đem mạng sống của mình ra để bảo đảm cho hàng hóa, súng đạn, thuốc men không lọt vào tay giặc. Nước mắt của Hai Được trào ra, hoà với nước mưa và sóng biển mặn chát. Một tiếng nổ chói chát bùng lên. Lửa loé sáng chói mắt. Đêm bị xé nát trong phút chốc, rồi sập chìm vào bóng tối dày đặc. Tàu địch hốt hoảng bắn pháo sáng nổ lụp bụp trên trời. Mưa vẫn ầm ầm dội xuống. Dông vẫn giật điên cuồng dận dữ. Hai Được ôm được một miếng ván bơi thoát vào bờ. Lột khẩu AK báng gấp sau lưng ra cầm tay, anh nhanh chóng vượt qua động cát, lẩn nhanh vào rừng sú vẹt, rồi trú lại ở đó, hy vọng gặp lại đồng đội trên con tàu không số. Đêm trôi qua chậm chạp tới bực dọc. Mờ sáng, Hai Được lần đi theo lối rừng sình một cách thận trọng; vừa đi vừa căng mắt tìm kiếm. Anh không hy vọng gặp lại thuyền trưởng, bởi khối thuốc hủy tàu qúa lớn, sức ép của sóng mạnh đến mức, cá mập cách xa hơn trăm mét cũng khó mà sống sót; nhưng thật bất ngờ, khi anh leo lên một doi đất khô rậm rạp cây cối, anh lại nghe tiếng thuyền trưởng gọi tên mình. Hai người ôm chầm lây nhau, khóc nấc lên sung sướng. Đến tám giờ sáng, tụi lính sư 9 bắt đầu đổ quân càn vào những cánh rừng ngập mặn. Lập tức chúng bị bộ đội và du kích nổ súng đánh chặn. Hai người mừng tới trào nước mắt, cứ nhắm hướng nương theo tiếng súng mà tìm đồng chí, đồng đội để cùng chiến đấu. Vốn là dân thổ địa, việc kiếm tìm lối đi đối với Hai Được không có gì là khó. Chỉ khoảng hơn ba chục phút, hai người đã nhập được vào đội hình chiến đấu của du kích Trường Long Hòa. Họ vừa đánh vừa luồn lách tránh những mũi nhọn hỏa lực qúa mạnh của địch. Nhưng dù thế nào họ cũng chỉ loanh quanh trong những cánh rừng ven biển, với mong muốn cứu được những thủy thủ còn may mắn sống sót, mà chẳng may bị thương do đạn nhọn tàu địch bắn xối xả trên biển. Lúc luồn vào cánh rừng chà là gai góc, Hai Được thoáng thấy bóng một người phụ nữ to lớn đang cúi lom khom băng đầu cho một thương binh. Nhìn tấm lưng to bè và hơi gù của người đàn ông, Hai Được nhận ra ngay đó là người đồng đội trên tàu không số. Bước tới gần, Hai Được ngớ ra khi thấy người phụ nữ chính là vợ của mình. Linh tính của người vợ cũng khiến chị quay lại và nhận ra chồng. Cuộn băng đang cầm trên tay tuột xuống đất, xõa ra một đống trắng xóa. Người thương binh nhìn thấy Hai Được và người thuyền trưởng, liền vụt đứng dậy, dang rộng hai cánh tay, la rổn rảng: - Trời đất! Thủ trưởng và thằng Đấu còn sống hả? Còn ai nữa? Thằng Chiến bơi sát bên tôi, gần tới bờ thì bị sóng và đạn pháo bắn dạt đi mất. Tới tận lúc đó nó vẫn còn mạnh cùi cụi. Số nó trời đánh không chết. Còn thằng Quyết, làm như nó cũng đã bơi thoát được vô bờ. Thằng đó dân hạ bạc rặt ròng, bơi như rái. Khi biết vợ chồng Hai Được gặp nhau sau ròng rã nhiều năm trời xa cách, cả hai đều tự dưng trào nước mắt, khóc mừng cho hạnh phúc của họ. Câu đầu tiên người vợ nói với chồng là câu thông báo họ đã có một đứa con trai bảy tuổi, đang sống với ông bà. Nghe nói vậy, người thương binh tên Lợi, ôm chặt cứng lấy Hai Được, vừa lắc lấy lắc để vừa nói: “Nếu vợ tao có con gái, tụi mình kết sui gia nghe! Lớn lên, cho tụi nó theo mình guýnh giặc mù trời luôn!”. Người thuyền trưởng tên Thắng cười khà khà: “Chừng sắp nhỏ lớn, còn giặc đâu nữa mà guýnh. Nếu cánh mình còn sống đủ, Quyết- Tâm- Chiến- Đấu- Thắng- Lợi, đâu để cho chúng nó phải khổ sở trận mạc”. & Người con trai lớn của Hai Được cũng có mặt trong bàn nhậu, anh nói với chúng tôi: - Tía tui gan cùng mình. Sau ngày hòa bình, thấy sắp nhỏ ở xóm Nhà Mát không có trường để học, ổng lặn lội đi xin cây cất lớp học, rồi đứng ra vừa làm hiệu trưởng vừa làm giáo viên của ngôi trường chỉ có một lớp, mà hổng cần xin phép ai. Tui già đầu, lớn con cồ cộ ổng cũng bắt ngồi học. Chuyện dạy học của Hai Được cũng như cổ tích của vùng đất sắt thép sau chiến tranh. Mới đầu lớp học chỉ là cái chòi lá dạy cho hơn mười đứa trẻ. Về sau, Hai Được cứ mỗi ngày mỗi đi gom học trò, lớn nhỏ hơn ba chục người, buộc lòng ông phải che chái nhà ra ba phía để mở rộng lớp. Khi hay tin người thủ trưởng từ Bắc trở về làm cán bộ trên tỉnh, ông lặn lội lên thăm, rồi cụ bị rinh về một bao bố sách giáo khoa cấp một. Ông chỉ đọc sách mà dạy. Dạy theo cách ông học bổ túc cấp một khi theo tàu ra Bắc lần đầu. Lũ trẻ cũng như người lớn đều thích học, không phải vì Hai Được dạy học thật tình, mà cái chính là vì họ thích học hát. Hai Được tướng tá to lớn, gồ ghề, nhưng hát khá hay và thuộc rất nhiều bài hát. Ngôi trường sáng chiều, lúc nào cũng rộn rã tiếng hát. Dân tình nhiều người đi làm rẫy, hay đi kéo lưới, đi đẩy xệp ngoài biển về, rất thích ghé xem lớp học. Có người ghé riết, nghe riết cũng thuộc nằm lòng nhiều bài hát. Những người này thấy vợ Hai Được buổi trưa thường nấu cơm, nấu cháo cho những đứa học trò nhà nghèo, xa xôi ở lại ăn, thỉnh thoảng họ cũng đem cho mớ tôm, mớ cá, mớ trái cây. Có người biết vợ chồng Hai Được nghèo, còn đem tới cho cả gạo, cả bắp, cả khoai lang. Lớp học mở ra được ba tháng thì phòng giáo dục cử xuống một cô giáo trẻ ngoài Bắc vào tăng cường cho tỉnh. Cô giáo phân loại sức học, chia ra thành hai lớp; lớp học sáng, lớp học chiều. Cô giáo gọi Hai Được là hiệu trưởng. Từ đó dân Nhà Mát gặp Hai Được ở đâu cũng gọi ông là hiệu trưởng. Khi ông thủ trưởng ở trên tỉnh xuống thăm, biết Hai Được làm việc không có lương, mới bàn với xã cho ông phụ trách chức trưởng ban văn xã. Tiền trợ cấp không đủ mua trà thuốc cho cái miệng lúc nào cũng thở khói mù mịt như ống khói xà lúp, nhưng Hai Được vẫn lăn ra làm việc như trâu cui. Những lúc rảnh, ông chui tọt vào lớp, chống cằm ngồi nghe cô giáo dạy học. Mới đầu cô giáo có ý ngại, nhưng Hai Được nói tỉnh queo: “Bây coi tao như hiệu trưởng dự giờ được không. Tao dự giờ để học cách dạy học. Dân xã mình lo đánh giặc hồi nào tới giờ, còn nhóc nhách người mù chữ”. Khi trường học đầu tiên của ấp Nhà Mát được dựng lên ở chân động cát, đang làm cán bộ xã, Hai Được lại làm đơn xin chuyển làm giáo viên dạy lớp một, lớp hai. Chưa có chủ trương của cấp trên, ông hiệu trưởng chính thức không dám nhận, nhưng vì thiếu giáo viên nên vẫn lén để cho Hai Được dạy học. Có điều là không biết lấy đâu ra tiền để trả lương cho ông thầy giáo không hề có bất cứ một mảnh bằng nào lận lưng. Biết vậy, Hai Được nói uỵch tẹc: “Bây cho qua lên huyện thi giáo viên giỏi, nếu đạt, qua biết cách tự xoay xở cho mình”. Hai Được thi đạt danh hiệu giáo viên giỏi. Huyện báo lên tỉnh, tỉnh nảy ra sáng kiến hợp đồng những người có tâm huyết đứng ra dạy học, bởi lẽ miệt ven biển Trà Vinh bấy giờ thiếu giáo viên trầm trọng. Vậy là Hai Được đàng hoàng trở thành ông giáo chánh hiệu trong biên chế. Do có lương tháng, Hai Được bỏ qua không khai báo thương tích để lãnh thêm chế độ. Ông cho rằng, đã ăn lương rồi thì tham chi tiền thương binh liệt sĩ. Mình sống còn được hưởng chút đỉnh này nọ, chứ tụi nó chết được gì. Hàng ngày, Hai Được lúc thì ra biển kéo cá với vợ, lúc thì kéo cá với con, nhưng bao giờ ông cũng chỉ kéo từ năm giờ tới bảy giờ thì nghỉ. Ông nghỉ để về lo dạy học. Công việc rẫy bái ban ngày ông phó hết cho vợ con. Nhưng hễ sập chiều xuống thì ông giành phần gánh nước tưới năm công dưa hấu để đỡ phần nào cho vợ con. Khi gia đình đã vượt qua thời khó khăn, Hai Được là người đầu tiên trong ấp mua về một cây đèn măng sông. Đêm đêm, ông bơm dầu thắp đèn sáng choang. Có đèn thì có người tới chơi, xúm nhau đờn ca hát xướng. Tự dưng gia đình ông thành câu lạc bộ đờn ca tài tử, đờn ca tân nhạc. Cũng đủ lệ bộ đờn cò, đờn kìm, song loan, đờn ghi ta phím lỏm, đờn ghi ta tân nhạc. Lúc chúng tôi xuống lấy tin thì Hai Được đã nghỉ hưu. Nghỉ hưu nhưng không hề có một chế độ lận lưng. Nghe tôi hỏi chuyện này, Hai Được cười hề hề: - Tui chỉ là giáo viên hợp đồng, làm sao có lương hưu. Được dạy học mấy năm là đủ tự hào rồi. Mấy đứa con tui ít chữ nghĩa, đứa nào cũng sống nhờ nghề rẫy, nghề biển. Nhờ vay được vốn ngân hàng, tụi nó xúm nhau nuôi tôm, nuôi cua, nuôi nghêu; nhà tui có đói đâu mà xoay xở xin chế độ làm rộn Nhà nước. Như Tám Quắn nè. Bám trụ đánh giặc hà rầm mấy chục năm trời, trúng đạn trúng miễng nát cả mình mẩy, mà có thèm làm giấy chứng thương đâu. Thêm một vài trăm bạc mà nhằm gì. Mình thắng được thằng giặc Mỹ, thì mình cũng phải biết tìm cách thắng được thằng giặc nghèo đói chớ. Mấy chú rảnh, chiều ra thăm ruộng tôm của ổng. Tỷ phú đình huỳnh rồi đó. Vợ chồng tui mà trúng thêm vụ tôm nầy nữa, tui lên nhà lầu mái bằng, gắn cả máy lạnh cho coi. Biển rộng hằng hà, mình con nhà biển, dốt với làm biếng mới chịu nghèo mấy chú ơi! Còn như siêng làm lụng, toan tính, giàu mấy hồi! Nhờ nói tới việc làm giàu từ biển, tôi mới biết thêm Hai Được còn có nghề đóng đáy hàng khơi. Năm 1977, ông lần dây đáy đi thăm cá, chẳng may gió chướng quất sóng lừng rớt xuống biển, trúng nhằm đám bọt biển, bị cuốn trôi gần ba chục cây số. Nhờ vóc dạc mạnh mẽ mà thoát chết trong gang tấc. Giờ tuổi tác, ông mới chịu giao lại mấy miệng đáy hàng khơi cho người con trai áp út chăm nom săn sóc. Tôi hỏi: “Chú Hai coi còn gân vậy, sao đã chịu rời biển lên bờ?”. Hai Được phát cười hề hề: - Vợ chồng tui cùng đánh giặc rần ì bi nhiêu năm, vậy mà cũng còn kịp có với nhau chục đứa con. Các con tui sống quần tụ xúm xít, cháu chắt ê hề cả đàn cả đống, bả là cấp dưỡng cho cả gia đình, còn tui là ông giám đốc điều hành ráo trọi công việc chớ bộ. Tới bữa cơm chiều mấy chú biết. Đông tới chóng mặt. Tui hồi chiến tranh là lính, nhưng giờ là tư lệnh của cả gia đình mấy chục người. Vừa chợp câu chuyện tới đó, tôi thốt nghe có tiếng máy xe công nông nổ phành phành ngoài đầu ngõ. Nhìn ra thấy một cái rờ moọc chất đầy dưa hấu đang lù lù tiến vào. Ngất nghểu trên đống dưa là hai cô gái tuổi chừng mười sáu, muời bảy, còn người lái xe là một phụ nữ tuổi chắc đã ngoài bốn mươi. - Con Tư đó. Cũng ô dề như mẹ nó. Không học mà cũng biết chạy xe công nông, chạy ghe máy ra đáy hàng khơi đổ cá; nó còn biết cả nghề sửa máy tàu, máy nổ. Hai đứa nhỏ là con nó, học không giỏi nhưng làm việc khỏi chê. Chiếc xe chở dưa về nhà được một lúc, lại thấy một chiếc xe công nông nữa chở đầy rễ cây chạy vào. Cầm lái cũng là một người phụ nữ. - Vợ thằng út. Nó chở rễ cây thuốc cá về phơi, bán cho xý nghiệp chế thuốc trừ sâu. Chưa kịp nhìn rõ mặt người phụ nữ chở rễ cây, tôi đã thấy một đứa bé trai tròn lẳn, đen thùi lùi ở đâu ló ra. Nó xách một xâu gần cả chục con cua biển, toét miệng cười với chúng tôi. Hai Được nạt: - Mầy bỏ học há Tửng? Mầy coi chừng tao nghen! Thằng bé lại toét miệng cười, rồi nói rổn rảng: - Bữa nay thầy đi họp đột xuất trên huyện, con với mấy đứa nó tiếc buổi nên đi móc cua. Để con luộc cho lẹ hén nội? Nói chưa dứt câu thằng bé đã vọt xuống bếp. Tôi biết bà nội nó với hai đứa cháu gái đang lui cui nấu cơm trưa cho cả đại gia đình ở dưới. Nhìn ra sân thấy bóng nắng đã gần đứng. Nắng miệt biển vàng tới nao lòng. Càng nhìn càng thấy nắng rung rinh như múa. Có lẽ nắng và cát ong óng của xứ này đã hun nên tính cách người con của biển đang ngồi trước mặt tôi. Tôi xoay qua, tính nói anh bạn bấm một tấm chân dung Hai Được, nhưng anh ta đã xách máy chạy ra sân săn ảnh từ hồi nào. Sân nắng hực lên màu vàng, thơm giòn như miếng bánh, mời mọc tới lịm người. HTT

Thứ Năm, 7 tháng 5, 2015

TẢN MẠN SAU ĐẠI HỘI CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ KHU VỰC ĐÔNG NAM BỘ Hồ Tĩnh Tâm

TẢN MẠN SAU ĐẠI HỘI CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ KHU VỰC ĐÔNG NAM BỘ Hồ Tĩnh Tâm Trong chuyến đi dự Đại hội Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Khu vực Đông Nam Bộ lần này, sau đại hội, tôi chỉ ở lại Tiền Giang một ngày, du lịch sông nước cùng các anh ở Vũng Tàu buổi sáng, do anh Trần Đỗ Liêm tổ chức, sau đó tôi mời hết các anh trong đoàn về ăn cơm trưa với vợ chồng nhà báo Đậu Viết Hương và Nguyễn Thục Như. Nhà báo Đậu Viết Hương nói với tôi, quý quá, có tới ba nhà thơ nhà văn Vũng Tàu ghé thăm tệ xá của vợ chồng tôi, vậy mà không báo trước, để vợ chồng tôi chuẩn bị hoành tráng hơn. Tôi nhìn bàn đồ ăn ê hề, cười mà nói, tôi biết tính hai ông bà lúc nào cũng chu đáo, nên đổ bộ như vầy mới vui, ăn thua là có cơm canh cá thịt với bia rượu tưng bừng, mà mấy thứ đó nhà ông bà đâu có thiếu. Vâng, nữ sĩ Thục Như chu đáo lắm, ngoài cơm ngoài bún, còn có cả xôi lạc nữa đấy. Nếp cái. Nếp Bắc Hoa Vàng đàng hoàng. Vừa vào nhà là đã lập tức mở trận. Tôi nói, cứ thư thư chờ các anh chị Hội Văn học Nghệ thuật Tiền Giang tới đủ, rồi a lê hấp mới vui chứ. Đậu Viết Hương phẩy tay, trưa rồi, đứng ngọ rồi, các bác đã đói mèm cả ra rồi, việc gì mà chờ, ai đến sau thì ta kéo thêm bàn nữa. Đồ ăn đang nóng, để nguội mất ngon. Vậy là cuộc hàn huyên vầy ra ngay. Vừa ăn vừa trò chuyện, vừa lần lượt đón tiếp các nhà văn nhà thơ Tiền Giang. A hà, ra là đánh theo lối Nam Bộ, cứ càng lúc càng kéo dài ra, càng lúc càng đông vui ra. Khi thấy khách cứ càng ngày càng đông, nhà thơ Lê Huy Mậu hoảng thật sự, vì cứ kiểu du kích chiến trường kì Nam Bộ này, tối sao về tối Vũng Tàu, vậy là anh to nhỏ gì đó với nhà văn Phạm Văn Đoan, rồi xin phép gia chủ cho cả đoàn quân bốn người của Ô Cấp lui quân. Thục Như nắm tay nhà thơ xứ biển nói, em còn chưa hát “úp mặt sông quê” mà anh Lê Huy Mậu. Còn Đậu Viết Hương thì ôm lấy ông nhà văn duy nhất của ngành dầu khí Việt Nam, nói rổn rảng, anh Đoan ơi, anh “nợ trường Sơn” thời chiến tranh còn chưa đủ sao, mà hôm nay lại còn “nợ Tiền Giang”. Nhà văn Thường Xuân phải nói giùm ông lính lái xe Trường Sơn, thôi, cho chúng tôi kiếu đi, lần sau các anh xuống Vũng Tàu, chúng tôi chiêu đãi tắm biển mênh mông cả ngày. Vậy là đoàn Vũng Tàu lên đường. Vậy là mất nghiến một phần ba quân số. Nhưng, ai đến cứ đến, ai đi cứ đi, chiến trường súng nổ. Cuộc vui té ra lúc này mới vào đỉnh điểm, vì nhà văn Trương Trung Nghĩa đã cầm lấy micro, đã bắt đầu cao giọng hát. Nào thì hát. Đủ cả nhạc Tây nhạc Ta. Đủ cả tình ca, anh hùng ca. Cả đọc thơ. Cả cổ nhạc. Luôn cả tiếu lâm ba miền Bắc Trung Nam. Phát hoảng thật sự, nên Lão Dzu tôi phải đánh bài chuồn. Là bởi, tôi còn ý định bon về Càng Long của Trà Vinh, tranh thủ chụp hình cầu treo dây văng Cổ Chiên để viết bài, chứ lớ mớ chậm chân, 19 tháng 5 này họ thông cầu kỹ thuật, mình viết còn ý nghĩa gì nữa. Một mình chạy xe qua cầu Rạch Miễu, rồi đến ngã ba rẻ phải về Vĩnh Long, thẳng tiến là Trà Vinh, lúc này tôi mới thấm mệt, mới hối hận không nghe lời Thục Như ở lại cho khỏe, rồi sáng mai về sớm. Vậy là tôi đổi kế hoạch, về luôn Vĩnh Long để tiết kiệm hơn bốn chục cây số chạy xe thui thủi một mình. Nhưng khi đã qua cầu Hàm Luông, bia rượu ì xèo suốt hai ngày mới hành tôi buồn ngủ rả người. Vậy là tôi tấp vào một cái quán rợp mát bóng xoài, nói với cô chủ quán, chị làm ơn cho tôi ngủ nhà một lúc, nhớ chừng bốn mươi phút thì đánh thức, bởi tôi còn tới năm chục cây số nữa mới về tới nhà. Vậy là ngủ. ngủ ngon lành. Ngủ trong hương xoài. Ngủ trong sự canh chừng của cô chủ quán xinh đẹp. Lúc thức dậy, lúc uống trái dừa xiêm, tôi mới nghiệm ra rằng, hình như các cô gái đẹp bán quán, ai cũng tốt cả. Về đến nhà lúc gần mười giờ đêm, bà xã ra mở cửa hỏi ngay, sao, rớt rồi phải không, bầu đại biểu mà anh là dân ngụ cư thì làm sao mà trúng. Nghe mà phật cả lòng. Mười năm trước, nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã nói tôi là dân ngụ cư ở Nam Bộ, chỉ có lo mà viết, chứ đừng tham thố làm gì cả. Ây da, đất nước mình, nói như nhà văn Hồ Phương, “nông trường ta rộng mênh mông, trăng lên trăng xuống vẫn không ra ngoài”; đến cái nông trường miệt Ba Vì ông được cử đến nuôi bò để thực tế viết văn, còn rộng mênh mông, huống nữa là cả vùng đất Nam Bộ. Tôi phì cười. Ơn trời, anh em chưa đến nổi ghét cái thằng Quảng Trị ngụ cư này. Nghe vậy bà xã lại hỏi. Vậy những ai bị gạch. Chán mớ đời cho cái câu “những ai bị gạch”. Nhà văn với nhau cả, sao lại bị gạch, sao lại gạch nhau cơ chứ. Bả đâu có biết, do cơ chế đại hội đại biểu, nó buộc anh em phải gạch nhau, phải đau đầu đọc đi đọc lại tên nhau, rồi đắn đo, rồi khổ tâm, rồi cuối cùng cũng phải nhắm mắt mà gạch tên nhau. Vậy mà cũng có tới sáu phiếu không hợp lệ. Không hợp lệ là bởi có sáu người không chịu gạch tên đồng nghiệp của mình. Thương quá. Thương tới trào nước mắt. Ngẫm mà cám ơn, đã có tới hơn mười nhà văn đang sống ở Nam Bộ tự động xin rút tên ra khỏi danh sách bầu, nhường xuất đi Hà Nội cho các nhà văn khác. Cứ cho là cả vùng đất Nam Bộ, có khoảng 50 nhà văn đi, cứ cho là 20 nhà văn đã tự xin rút tên đi, vậy thì còn 30 người, có khác gì nhúm muối trong biển nhà văn Việt Nam khoảng 1300 người, sao Đại hội không biểu quyết bằng tay, cho đi hết cho rồi. Bầu 24 đại biểu, vậy là sáu người háo hức ra Hà Nội gặp bạn bè văn chương cả nước phải ở lại. Vui sao nổi mà vui. Mừng sao nổi mà mừng. Cứ nhìn buổi cơm chiều bế mạc Đại hội, nhà ăn trống lổng, vì tới hơn phân nửa đại biểu đã ra về. Anh chị em rớt danh sách của các tỉnh buồn mới ra về. Nhiều người trúng cử cũng buồn cho đồng nghiệp nên bỏ về theo. Sao ban tổ chức Đại hội toàn quốc, không đoái thương cho sự thiệt thòi của văn chương Nam Bộ nhỉ?! Năm 2014 đấy, trong danh sách kết nạp hội viên mới, Nam Bộ chỉ có mỗi một nhà văn mới. sự thiệt tòi ấy, khiến cho đến hôm nay, cả Nam Bộ cũng chỉ có 48 nhà văn trên tổng số mấy trăm người đang viết, đang vắt kiệt mình ra trên từng trang viết. Ôi chao là buồn! Buồn mênh mông buồn. Chợt nhớ lại đêm qua, nhà thơ Nguyễn Hữu Nhân gọi điện cho tôi, xin số của Nguyễn Ngọc Tân ở Cà Mau, rồi nhắc tôi, bớt nhậu đi nhen, còn dành sức mà ra Hà Nội. Tự nhiên cứ rưng rưng thế nào. Tự nhiên cứ muốn nói với bạn bè, chuyến này phải tìm cách bầu lấy mười nhà văn Nam Bộ vào Ban chấp hành, đặng thực hiện câu của cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, mình phải tự cứu lấy mình. Hay nói như nhà văn Lê Đình Bích, Nam Bộ không cứu lấy Nam Bộ thì ai cứu. HTT

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2015

THÁNG NĂM VỀ VÀNG NẮNG CA DAO Hồ Tĩnh Tâm

THÁNG NĂM VỀ VÀNG NẮNG CA DAO Hồ Tĩnh Tâm Tháng năm về vàng rực nắng ca dao Gió dân ca sóng đôi từng sợi mỏng Dòng sông lụa chao nghiêng mềm cánh sóng Cây phượng già đỏ rực khúc hè sang Em dịu dàng nón lá bước xênh xang Tóc xõa dài thơm bông chanh bông bưởi Mắt xanh biếc chớp vào trời mát rượi Lũy tre làng nghiêng bóng phủ lưng ong Lối bờ đê hương cỏ sữa nao lòng Con đò nhỏ chòng chành câu hát lý Bến cây còng trầm ngâm như thi sĩ Con trâu nằm nhai lại tháng năm xưa Điệu ru buồn thả nổi suốt canh trưa Con chó sủa vu vơ nhà hàng xóm Bông lựu đỏ lập lòe như lửa nhóm Chút duyên quê níu cả tháng năm về Lục bình trôi hoa nở tím đam mê Con chuồn ớt đậu vào thương vào nhớ Anh dừng bước chân vân mùa duyên nợ Tháng năm rồi mây trắng nỗi tương tư HTT

ÔNG LÃO BÁN VÉ SỐ VÀ CON CHÓ TRẮNG Truyện ngắn: Hồ Tĩnh tâm

ÔNG LÃO BÁN VÉ SỐ VÀ CON CHÓ TRẮNG Truyện ngắn: Hồ Tĩnh tâm Bao giờ cũng như bao giờ, con chó đi trước, ông lão đi sau; con chó và ông lão nối với nhau bằng một sợi dây vải đã xỉn màu. Họ cùng đi bán vé số. Ông lão có mái tóc bạc như cước, cái lưng còng xuống, làn da răn riu đầy vết sạm thời gian. Con chó mắt xanh, lông trắng, cái mũi nhỏ đen ướt; thoạt nhìn, ai cũng tưởng nó còn ít tuổi, nhưng nhìn kỹ ánh mắt nó, mới biết nó cũng già nua không thua gì ông lão. Chó và người tới hàng quán nào, chủ quán và khách cũng mua cho vài tấm vé số. Không hiểu họ mua vì thương ông lão già cả hay vì mến con chó dễ thương. Chỉ biết bao giờ cũng có người mua. Kể không mua cũng tội. Ông lão đứng cúi đầu ủ rủ. Còn con chó ngước cặp mắt ươn ướt như cái mũi ươn ướt của nó lên nhìn khách một cách âu sầu. Có người mua một lúc cả mấy tấm. Nhờ vậy, ông lão và con chó sống được qua ngày. Và ngày nào cũng như ngày nào, ông lão và con chó cũng đi với nhau. Con chó lủn củn như cái dấu chấm màu trắng, chấm vào mặt đất. Ông lão còng lưng như cái dấu hỏi, hỏi vào mặt đất. Cả hai nối với nhau bằng sợi dây vải xỉn màu. Nhiều người cho rằng ông lão sợ mất con chó qúy. Nhưng sau này có người phát hiện, mắt ông lão đã mờ tới mức, nhìn gì cũng chỉ thấy loa lóa xám. Ông lão thui thủi một thân một mình với con chó trong một căn chòi dưới rặng ô môi bên bờ kinh cụt. Ông là người xứ khác dạt về đây. Thuở hàn vi, ông nhờ có sức bắp và võ nghệ, được địa chủ nuôi làm người ở coi nhà. Một bận, có gánh hát tuồng về neo thuyền hát trên sông. Đêm đêm, cả một khúc sông, đèn măng xông sáng rực. Tiếng ca tiếng đờn hòa quyện, loang dài theo con nước. Ghe tam bản ken dày coi hát, đông như trẩy hội. Gánh hát lưu diễn tuồng tích Lưu Bình- Dương Lễ, Thoại Khanh- Châu Tuấn hơn một tuần. Hơn một tuần ông lão(bấy giờ là anh trai lực điền) đeo theo gánh hát. Đúng hơn là ông lão đeo theo cô Chín, một đào hát có nước da săn giòn, có đôi mắt lúng liếng, có giọng ca mùi bứt ruột. Đeo riết rồi mết, rồi quen nhau, phải lòng nhau. Căn duyên cũng bởi tay địa chủ chịu chơi. Ban ngày, một vài lần y mời cả gánh hát lên bờ, đãi tiệc tùng ăn nhậu bù khú. Rượu ngà ngà, y biểu ông lão ra múa võ góp vui. Ông lão cỡi trần, thoa dầu dừa bóng lưỡng; toàn thân cuồn cuộn cơ bắp, hừng hực sức lửa của kẻ đương trai. Ông đi quyền, múa mã tấu, múa côn vun vút như gió, như chớp. Cô đào Chín ngồi coi, mắt mở to không chớp. Tới chừng ông bầu bắt cô hát góp vui, cô Chín lựa khúc tiêu tao, ca đứt ruột. Ông lão đứng ngay đơ góc nhà, nghe như nuốt từng lời. Cả hai đều nhìn thấy nhau, thấy tận lòng nhau. Hôm gánh hát nhổ sào đi xứ khác, ông lão vượt tường trốn theo. Ông đeo theo ghe, dầm mình dưới nước cả ngày, tới gần chiều mới leo lên, phủ phục trước mặt ông bầu, xin được làm đệ tử. Lênh đênh sông nước cùng gánh hát gần nửa năm trời, cô Chín có bầu với ông. Cả hai bị đuổi. Rời gánh hát, ông lão đưa cô Chín dạt vô đồng tràm, sống bằng nghề câu tôm, câu rắn. Bấy giờ, đêm nào ông lão cũng bồng bềnh trên chiếc xuồng con, xuôi ngược theo con nước lớn ròng. Cô Chín ở nhà, ngồi lựa từng con tôm, con rắn để sáng ngày đem ra bán ngoài chợ huyện. Một lần, không biết xớ rớ làm sao, đang đêm, cô Chín bị rắn hổ hoa mổ nhằm mu bàn tay. Bốn bề mênh mông nước nổi, bốn bề đen kịt màn đêm, cô Chín đành chịu chết trào đờm, chết tím tái, chết cong người trên bộ ván còng. Chán đời, ông lão bỏ ra thành. Bị bắt lính. Bị đày sang Algeria đánh nhau suốt mấy năm trời. Từ Algeria, ông lão về Sài Gòn với chiếc chân què. Từ đó, ông trở thành người làm tạp dịch cho một viên sĩ quan cấp úy. Viên sĩ quan đó về sau leo lên đến cấp chuẩn tướng hải quân của Ngụy quyền Sài Gòn. Khi Sài Gòn thất thủ, viên chuẩn tướng bỏ chạy ra nước ngoài, để lại cho ông con chó trắng và cả cơ ngơi dinh thự ngồn ngộn của cải. Ông lão không lấy bất cứ một món gì, chỉ đem theo con chó về sống dưới rặng ô môi bên bờ kinh cụt. Sống cho tới tận bây giờ bằng nghề bán vé số. Tới mùa hoa ô môi này, ông lão đã già lắm. đôi mắt gần như lòa câm. Đôi chân bước đã chuệch choạc. Con chó trở thành người dẫn đường cho ông mỗi ngày. Nó cũng già yếu, cũng gần sức tàn lực kiệt. Mỗi lần về tới nhà, nó liếm láp lấy có vài hột cơm, rồi nằm cuộn tròn trong chiếc ổ lót bằng giẻ rách, ngủ mê mết như chết. Mỗi buổi sáng, tưởng nó không dậy nổi. Vậy mà nó vẫn dậy trước để đánh thức ông lão bằng những tiếng sủa khàn khàn của tuổi tác. Họ lại ra đi. Con chó lủn củn đi phía trước, như cái dấu chấm, chấm vào mặt đất. Ông lão còng lưng đi sau, như cái dấu hỏi, hỏi vào mặt đất. Im lặng, trầm tư, như đất đồng cày ải. Mọi người vẫn mua vé số cho ông và cho con chó. Ông và con chó vẫn sống qua ngày bằng những tấm vé số bán được mỗi ngày. Chiều chiều, khi trở về căn chòi dưới rặng ô môi bên bờ kinh cụt. Ngoài niềm vui vuốt ve con chó trung thành, hiếu để, ông lão còn có thêm thằng Cọt. Thằng Cọt là cháu ngoại bồ côi của bà Sáu Lụa. Nó đã học tới lớp năm, thân hình tròn lẳn, đen bóng, nhưng vẫn mang cái danh ngày xưa là thằng Cọt. Thằng Cọt học toán thế nào thì không biết, chứ đọc thơ và búng đờn mũi thì khỏi chê. Em đi lấy chồng Sao đành bỏ anh? Anh ơi! Kiếp này lắm ngang trái Để kiếp sau ta gặp nhau. Anh ơi số trời định trước Anh đừng giận vô cớ Kỳ lắm anh ơi! (*) Ông lão biết bài ca ấy thằng Cọt học được ở cô Đôria. Đôria là một cô gái Chăm, vẫn thường sang thăm và cho trái cây ông lão. Mỗi lần sang với ông, bao giờ cô cũng cởi bỏ tấm chàng mạng, để lộ gương mặt bầu bầu với cặp mắt đen và chiếc răng khểnh sáng nhấp nhánh. Cô yêu đắm đuối Sathall. Sathall có gương mặt hình chữ nhật, đẹp như đá tạc. Nhà nghèo nhưng Sathall bao giờ cũng tinh tươm, sạch sẽ, và hay cười bằng đôi mắt có đuôi như mắt con gái. Hai người vẫn thường trốn nhà đến căn chòi của ông lão, mỗi khi ông lão đi bán vé số trở về. Sathall ngồi như bức tượng, luôn gỏ gỏ ngón tay nơi ngạch cửa. Đôria vui như con chim sáo, hát miết một cách say sưa những bản tình ca Chăm huyền diệu. Trước khi chia tay, bao giờ cô cũng chun mũi hôn con chó trắng, và nói: “Ôi, cục cưng của Đôria!”. Và bao giờ cũng vậy, khi đôi tình nhân đã khuất mỗi người một ngã ở hai phía bờ kinh, thằng Cọt lại búng đờn mũi tăng tẳng, dọn giọng ca thánh thót: Con chim trao trảo Nó rất dạn Đã bay khắp nơi Được sống sung sướng Sanh con đẻ cháu Được ở khắp bụi bờ.(*) Đôria và Sathall thỉnh thoảng mới tới thăm ông lão. Đôria đêm nào cũng phải ngồi quay xa kéo chỉ, dệt sary. Sathall ban ngày bơi xuồng độc mộc chở bầy chim cốc đi gỏ phàng bắt cá, ban đêm phải đi giăng câu kiếm tiền nuôi mẹ. Chỉ có thằng Cọt là đêm nào cũng đến. Nhưng đêm nay thằng Cọt không đến. Vậy mà ông lão đang ngây ngấy sốt, ngây ngấy lịm đi trong chập chờn ảnh hình những hình ảnh vá víu của một đời người sắp trở về nước Chúa. Những cánh đồng ngút ngát. Những mùa bông tràm ngào ngạt. Cô Chín rực lên dưới ánh đèn măng xông với giọng ca mùi mẩn. Cô Chín rã rượi, tím tái, xỏa mái tóc dài như nước trên bộ ván còng. Những cánh rừng khô ráp gai góc, muỗi mòng ở Algeria. Viên chuẩn tướng cuống cuồng nhét vội tiền của vào va ly. Vừa tọng nhét, vừa hấp tấp hỏi ông lão có xuống tàu đi với hắn. Thấy ông lão lắc đầu, hắn phẩy tay chán nản: “Vậy là xong! Là thoát nợ! Tới ông Thiệu vừa hùng hổ tuyên bố tử thủ cũng cút hồi sáng nay rồi! Khỏi đánh thì khỏi chết. Vậy là thoát nợ!”. Ra tới cửa, không hiểu nghĩ sao, hắn lột cái đồng hồ Omega đắt tiền đưa cho ông. Và không hiểu sao, ông lão còn cất giữ tới tận bây giờ. Ông lão cố gượng sức kéo con chó vào lòng. Con chó dụi dụi chiếc mũi đen ướt lên mặt ông. Nó liếm những giọt nước mắt nóng hổi của ông lão đang trào ra. Nó rên lên ư ử. Trong khi đó, ngoài bờ kinh, hoa ô môi đang đơm đầy màu hồng phấn. Chùm chùm hoa cứ rực lên như mời gọi mùa xuân về phồng căng sức trẻ. Trong khi đó, từng cơn rùng mình lạnh buốt, từng lúc lại chạy rùng rùng dọc sống lưng ông lão, báo hiệu phút lâm chung sắp tới. Trong khi đó, ngọn gió đồng vẫn vô tình đưa mùi hương cỏ mật phả xuống dòng kinh lấp lánh sao trời. Trong khi đó,.. những gì sắp tận diệt một đời người vẫn đang rùng rùng kéo tới. Kỷ niệm dội về. Dội về. Ông lão ôm con chó trong lòng, theo dòng người hồ hởi, ào ạt đổ ra lộ lớn, kéo tới nhà thờ Đức Bà, rồi ùn ùn đổ xô về phía dinh Tổng thống. Những chiếc xe thiết giáp của giải phóng hùng dũng nghiến xích sắt trên đường. Sao mà họ trẻ vậy. Trẻ không tưởng được. Một cô gái vận bà ba đen, nón tai bèo, ngồi bên tháp pháo. Thấy ông lão, cô gái nở nụ cười tươi roi rói, huơ cao khẩu AK, gọi ríu rít như chim: “Ông ơi! Ông ơi!”. Ông lão trào nước mắt, muốn nhào tới, muốn la thật to cho hả nỗi vui sướng. Nhưng một tay phóng viên nước ngoài đã chen tới, hướng ống kính về phía cô gái mà bấm lia lịa. Ông lão muốn đẩy tay phóng viên sang một bên, nhưng rồi ông chỉ đứng lặng lẽ với những giọt nước mắt tuôn trào lả chả. Niềm hạnh phúc qúa lớn khiến tim ông như nghẹn lại. Kỷ niệm vẫn dội về. Người đàn bà Algeria tóc xoăn, ôm đứa con thiêm thiếp trong lòng, ngồi bất động trước căn nhà đã cháy rụi thành đống tro tàn ngún khói. Ông lão móc ba lô đưa cho bà ta hộp thịt. Bà ta gạt phắt tay ông, mắt rực lửa. Những người lính lê dương dận dày đinh rầm rập bước qua một cách hùng hổ. Họ đã chiến đấu vì cái gì cơ chứ? Kỷ niệm vẫn dội về. Dội về. Lần ấy ông mắc mưa lặm gió, nằm liệt giường. Đôria dùng ống giác giác cho ông và chích máu cho ông. Bà Sáu Lụa bưng qua cho ông chén cháo cá. Lúc xuống bếp nấu cho ông nồi nước xông, bà lọng cọng thế nào bị vấp té, trặc chân, phải bốc thuốc Nam, vừa uống vừa thoa cả tháng trời. Và… trong khi quầng sáng chói lọi của nước thiên đàng đang diễn ra tất cả những gì trong cuộc đời sắp tắt lịm của ông lão, con chó trắng quật sức chạy như mũi tên dọc bờ kinh cụt tới nhà thằng Cọt. Vừa thấy thằng Cọt đang lụi cụi học bài bên ngọn đèn dầu hôi, nó đã cất tiếng rên đau đớn, rồi lập tức cắn ống quần thằng Cọt lôi đi. Không kịp nói với ngoại một lời, thằng Cọt nhảo ngay ra cửa, chạy guồng giò mà chạy. Nó chạy như cuốn lốc trên bờ kinh. Qùy chân bên bộ ván còng, thằng Cọt dùng cả hai tay nâng bàn tay co rút của ông lão, gọi hào hển trong tiếng nấc: “Ông ơi! Ông ơi!”. Phải lâu lắm ông lão mới hé được đôi mắt đục lờ đã đờ đẫn không còn sinh khí. Nhưng ông vẫn nhận ra nó. Hình như ông cố lục tìm trong ký ức một điều gì đó. Gương mặt ông như căng lên cùng với những tiếng nói hào hển, đứt quảng: “Ông… ông có… cái… này… cho con!..”. Ông lão móc trong ngực ra cái đồng hồ lóng lánh sắc vàng. “Con… bán lấy… tiền ăn học”. Nói xong, ông lão thở hắt ra những gì còn sót lại lần cuối trong cuộc đời, rồi ngật đầu sang một bên, nhắm mắt. Không biết bằng cách nào, con chó trắng già nua đã leo lên được bộ ván còng, nằm gác đầu lên ngực ông lão. Thân thể còn ấm nóng, nhưng nó đã tắt thở. Thằng Cọt hiểu ra tất cả. Nó vùng chạy ra ngoài. Vừa chạy vừa gọi vang vang trong đêm hoa ô môi đơm đầy bờ kinh cụt. - chị Đôria… aaa! Anh Sathall… aaall! H.T.T. (*) : Trích dân ca Chăm An Giang.

Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

THÁNG TƯ THEO EM VỀ Hồ Tĩnh tâm

THÁNG TƯ THEO EM VỀ Hồ Tĩnh tâm Theo em về cuối nẻo tháng tư Ngày trở nắng hàng cau xôn xao gió Mùa bạc tóc nói lời hoa phượng đỏ Con ve gầy kêu rạc giọng hè ơi Chợt bần thần khóm trúc dậu mùng tơi Dáng bần nghiêng nỗi buồn trên sông nước Bốn mươi năm có bao giờ nguôi được Người mẹ nghèo vai áo vá năm xưa Bóng hàng dừa rưng rức nỗi ban trưa Con trâu nằm bên bờ tre nhai nắng Thương đỏ mắt đến từng cây rau đắng Con đò chiều nhuộm tím cả dòng sông Hoàng hôn buông xuống điệu lý phập phồng Năm tháng cũ thấm trong từng hơi thở Tháng tư thức trao nhau từng sợi nhớ Tiếng đờn kìm rưng rức suốt đêm thâu Bàn tay em tôi mắc nợ từ lâu Sao quên được mưa chiến trường thuở ấy Những con rạch những dòng kinh sóng dậy Mái dầm bơi dài suốt bốn mươi năm Cùng em về miền thương nhớ đăm đăm Trải lòng ra với bông bần bông gáo Duyên với nợ cồn lên bao cơn bão Tôi theo em về cuối nẻo tháng tư HTT

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

TRÁI TIM NGƯỜI LÍNH Truyện ngắn: Hồ Tĩnh Tâm

TRÁI TIM NGƯỜI LÍNH Truyện ngắn: Hồ Tĩnh Tâm Tìm lòng vòng một hồi, cuối cùng tôi phải lội ra tận ngoài ruộng mới gặp được ông. Ông vận xà lỏn, phong phanh cái áo bạc phếch đã trổ màu phèn. - Cha, cái thằng dữ hôn. Sao biết tao ở đây mầy? Vừa nói ông vừa nhe răng cười. Nụ cười hết cỡ, trắng lấp lóa trên gương mặt đen sạm. Đã vậy đầu lại hói trụi lủi suốt từ chân mày lên tận đỉnh. Như đọc được ý nghĩ của tôi, ông cựu trung tá bước từ dưới ruộng lên bờ. - Tao vậy chớ khỏe nha mầy! Suốt từ ngày còn quân ngũ tới về hưu đến giờ, tao hổng tốn của nhà nước tới một cắc tiền thuốc trị bịnh. Bịnh tật nó sợ tao như sợ tà. Ngay cả cấp ở trong tù, bị tụi nó uýnh tàn canh tận mạng, tao cũng cứ trơ ra. Phải rồi. Tôi có nghe chú Sáu kể về ông. Ông bị tụi lính sư 7 bắt được trong một trận đánh sanh tử. Tiểu đội trinh sát của ông bị trực thăng đổ quân vây bọc gần Giáp Nước. Nện nhau đùng đùng suốt từ tám giờ sáng tới bốn giờ chiều. Cuối cùng còn lại mình ông. Đạn hết. Lựu đạn cũng hết. Ông liệng cây K2 xuống sông, ngồi tựa lưng vô gốc cây còng vấn thuốc giồng, ung dung châm lửa hút phì phà. Sau này anh em hỏi sao không trốn, ông nói gọn bưng: “Nó bọc đặc ngừ tứ phía, trốn đi đâu?”. Anh em lại hỏi: “Sao không liều mạng với tụi nó?”. Ông trả lời: “Tay không mần gì nổi tụi nó. Để tụi nó bắt còn hy vọng trốn tù”. Ông ở tù đúng một tháng, rồi kết nối với anh em, bí mật dùng dây gân siết cổ chết thằng giám thị, nhào ra giựt súng của tụi quân cảnh, đánh thẳng từ trong ngục ra ngoài. Mười lăm người chết hết bảy, hai người bị thương tụi nó bắt trở lại, còn đâu đều chạy thoát được vô vùng. Năm 1970 ông được cho về thăm nhà mấy ngày. Gặp hồi du kích xã đánh đồn Bàu Ráng, ông chụp súng nhào vô cùng đánh với anh em. Bứt xong cái đồn gai mắt, cô xã đội trưởng trẻ khô bước tới cám ơn ông. Ông nói: “cám ơn suông vầy coi sao được. Cho hun miếng khỏi cám ơn”. Cô xã đội trưởng cười tủm tỉm: “Lính chủ lực khôn ác địa. Nè, hun lẹ đi, để người ta thấy chọc quê chết hà!”. Vậy là ông ôm ghị lấy cô, hun búa xua búa xụi. Cô xã đội bị nhột cười khanh khách. “Ăn gian vừa thôi cha! Xin hun một miếng mà hun qúa trời. Bắt thường sớm mơi theo người ta đi phục lộ uýnh xe, được hông?”. Ông nhe răng cười. “Được! Nhưng phải thưởng gấp mười lần như vầy mới đi!”. Mờ sáng hôm sau ông ôm súng theo du kích đi phục lộ. Tụi nó chạy hai chiếc xe jeep từ trên quận xuống. Ông bấm cóc điện. Mìn nổ hất lật ngược chiếc xe chạy phía trước. Xăng bốc lửa cháy bùng bùng. Chiếc xe phía sau qúa trớn đâm sầm vào chiếc xe phía trước, cũng bén lửa cháy đùng đùng. Tụi lính nhảy tạt ngang qua phía bên kia vệ đường, triển khai bắn trả rần rần rát mặt. Du kích nhắm đánh không lại, kéo nhau rút nhẹm vô bưng. Chạy tới con mương cạn, ông giả đò vấp té, kéo tuột cô xã đội xuống theo. - Nhớ hồi hôm hứa gì không? - Nhớ. - Vậy thưởng cấp kỳ ngay bây giờ nghen? - Lính nó rượt tới nơi, ở đó mà đòi thưởng. - Chặt đầu tụi nó cũng không dám rượt. Mà giả như tụi nó rượt tới, hai đứa mình uýnh luôn. Hun nhau ngoài mặt trận mới đã. Vậy là ông đè cô xã đội xuống, hun tới tới, tới tới. Những chuyện đó là ông kể cho tôi nghe, khi tôi với ông nướng lèo mấy con rắn nước nhỏ như ngón tay, ngồi nhậu ngay tại bến cây còng nhà ông. Nghe ông kể mắc ham, tôi hỏi: - Hun suông chớ có làm bậy không cha? Ông rọi ánh nhìn sắc lẻm vô mắt tôi rồi nói: - Tao chỉ xin hun chớ có xin làm bậy đâu mầy! Quân lịnh như sơn. Cổ cho bi nhiêu đó, tao hưởng bi nhiêu đó. Nói có bờ ruộng đây chứng giám. Tin hay không tùy mầy. - Tin. Nhưng rồi sao nữa? Đang vui, ông bỗng trầm ngâm, hạ giọng kể lại chuyện riêng của mình. - Tối đó tao ngủ hổng được, cứ trăn trở nhớ mùi mồ hôi ngai ngái của cổ. Tao nghĩ như vầy. Chiến tranh còn dài dài, cũng cần phải có con nít để tụi nó lớn lên tiếp mình uýnh giặc. Vậy là tao lần dò mò tới nhà cổ, tao đột vô mùng của cổ. Thấy cổ giật mình, tao dùng tay bụm miệng cổ lại, nói nhỏ: Ra ngoài vườn anh biểu. Chuyện hệ trọng lắm. Nói xong tao lủi ngay ra vườn. Đợi hoài không thấy cổ ra, tao tính chắc tiêu rồi. Lúc đó tao nghĩ như vầy. Chắc mình xấu trai, cổ hổng chịu. Thôi, rút nhẹm trở về đơn vị cho rồi. Đằng nào hết ngày mai cũng đã hết phép. Vậy mà tao vừa dợm chân bước đi thì cổ ra tới mầy ơi. Chiến tranh rần ì mà cổ xức dầu thơm. Mầy biết cổ xức dầu thơm để chi không? Để câu tao chớ chi nữa. Hổng lẽ có thứ thuốc chống muỗi nào lại thơm dữ dằn vậy. Bởi vậy, tao chụp lấy cánh tay của cổ, kéo cổ tới cây xoài, hỏi cổ có chịu tao không. Cổ im lặng một lúc rồi gật đầu. Lúc đó tao sướng như điên, tao nói với cổ, vậy thì cưới luôn bây giờ nghen. Cổ lại gật đầu. Ngay lập tức tao làm chồng, cổ làm vợ; lấy nhau trong vuông vười tối thùi lùi, không hề thấy trăng sao gì ráo. Lúc đó lối đâu mười giờ, mười một giờ khuya. Muỗi cỏ chích hai đứa tao sưng hết mình mẩy mà có hay đâu. Lúc đó sướng quá, quên ráo trọi mày ơi! đGần sáng tao với cổ lại lấy nhau lần nữa. Tôi ngóng cổ nhìn ông, hỏi: - Rồi sao nữa? Ông nói buồn bã: - Được có chừng đó thôi mầy. Tao với cổ đang cuộn lấy nhau thì nghe tiếng trực thăng ì ì đổ quân ngoài đồng trống. Biết chắc là tụi nó tổ chức càn quy mô. Dù chỉ còn một ngày phép, nhưng tao không thể bỏ anh em du kích để ra đi lúc này. Tao cùng với anh em dàn mặt đối đầu với tụi nó. Tụi nó càn dai như đỉa. Một ngày. Hai ngày. Rồi bốn ngày luôn. Tới chiều ngày thứ tư, tụi nó co cụm rút quân. Tụi nó rút theo đường lộ đất. Còn tụi F5 thì đến bằng đường trời. Bom nổ rền rung rinh mặt đất. Dứt trận bom, tao tìm hoài không thấy cổ. Tới tận bây giờ cũng không thấy mầy ơi! Bom tấn đào đất tanh bành như từng cái ao lở lói, thử hỏi có thứ nào còn nguyên được với nó. Bấy giờ tao muốn hóa điên, nằm úp mặt xuống đất khóc hù hụ như đứa con nít. Về tới đơn vị rồi, suốt mấy ngày tao vẫn còn bần thần như đứa mất hồn. Bị cấp trên phê bình về chuyện trễ phép tao cũng không thèm thanh minh thanh nga lấy nửa tiếng. Bởi vậy tới tận giờ nầy, ngoài mầy với bà xã tao ra, hổng một ai biết rằng tao đã qua một đời vợ. À, mà chuyện ông lấy bà vợ sau cũng ngộ kỳ đời. Bấy giờ là năm 1978, ông đang là trung đoàn trưởng. Trung đoàn lên đóng chốt ở biên giới. Trong một lần xuống tiểu đoàn thăm bộ đội, ông bắt gặp một gia đình mẹ góa con côi. Người đàn bà coi còn trẻ mà đã có tới bốn đứa con. Đứa lớn nhất mười bốn, đứa nhỏ nhất vừa lên bảy. Chồng của chị trước là du kích xã, ngày 30 tháng tư năm 75, trên đường tiến về tiếp quản huyện lỵ quê hương, anh đạp nhằm trái gài mà chết. Ông ghé vào nhà chị lúc cả nhà đang ăn cơm trưa. Nói là ăn cơm nhưng thực ra cả nhà đang húp cháo trắng. Thức ăn duy nhất chỉ thấy một tộ đầy tú hụ rau cải trời luộc, với chén nước tương. Mấy đứa nhỏ, đứa nào đứa nấy ốm tong teo, đứa nào cũng chỉ độc cái quần xà lỏn, phơi hết xương sống xương sườn ra ngoài. Đến đứa bé gái út cũng đánh trần như mấy anh nó. - Bả giống vợ cưới trong đêm của tao qúa mầy ơi! Tạng người cũng tầm tầm. Nước da cũng trắng như bông bưởi. Tới mái tóc cũng giống y chang. Lúc bả ngước mắt lên, tao sững cả người. Tao nói với thằng liên lạc cứ chạy honda về trước, sáng mai cho xe Jeep xuống tiểu đoàn rước tao. Lúc đám nhỏ đi chơi hết ở đâu đó, tao ngồi nói chuyện với bả một hồi, rồi tao huỵch tẹc luôn rằng tao muốn cưới bả, muốn cùng với bả chung sức nuôi sắp nhỏ. Nghe tao nói, bả gục đầu khóc nấc lên. Thấy thương lắm mầy ơi! Khóc đã đời bả mới nói rằng bả không dám, rằng bởi vì tao mới cưới vợ có một đêm coi như tao còn con trai. Tao nắm lấy bàn tay bả, tao nói dứt khoát không để bả một mình nuôi con nheo nhóc như vầy. Nước hòa bình rồi, trẻ con cần phải được đi học. Bả rút tay khỏi tay tao, chạy vô trong buồng nằm khóc. Chiều đó tao hỏi mượn tay tiểu đoàn trưởng mấy ngàn bạc, nhờ nó nói khéo để đưa cho bả mua gạo, mua quần áo cho sắp nhỏ. Tụi tao hổng có cưới xin gì ráo trọi. Tới giờ cũng không có miếng giấy hôn thú lận lưng. Coi như tao hai lần lấy vợ lậu đó mầy. Mà cái thời đó, sao tụi mình nghèo mạt vậy không biết. Lương bỗng nhẹ hều. Lĩnh lương tuần trước, một hai tuần sau đã bù trớt, không còn một trinh dính túi. Nhìn đám trẻ cứ một ngày một xanh rớt ra, tao cầm lòng hổng thấu. Tính tới tính lui nát nước, vẫn không kiếm được cách nào làm ra tiền. Cuối cùng, tao phải viện lý do bị thương nhiều lần mất sức để xin nghỉ hưu non. Uýnh giặc hà đùng hàng trăm trận mà tao chưa bao giờ lo như lo phải ra hội đồng y khoa giám định sức khỏe. Thương tích cùng mình mà tim, gan, phèo phổi của tao hổng hề hấn gì. Bởi vậy tao phải “y vận” tụi nó chầu rượu đế với khô sặc rằn, để tụi nó chế cho. Tụi nó nhậu bể thùng sáng đêm, vậy mà còn cười tao là thằng mê đờn bà. Ai đời đang khỏe sơn sởn lại xồng xộc đòi xin hưu. Tụi nó bảo cái số sanh bọc điều như tao, chịu ăn thua đời lính, chí ít cũng hai sao bự trảng. Rồi tụi nó lại khen tao là thằng khôn thành tinh, không tốn đồng xu cắc bạc mà cùng lúc vừa được vợ, vừa được con đình huỳnh đâu vào đấy. Giờ thì tao lên ngôi rồi nghe. Ông nội đàng hoàng. Ba đứa lớn, đứa nào cũng tốt nghiệp đại học, đứa nào cũng có công ăn việc làm, cũng đã thành gia thất. Chỉ còn nhỏ út đang học đại học y trên thành phố là chưa có chồng. Nhưng nhỏ đó thì tao hổng lo. Nó đẹp còn hơn cả hai bà vợ của tao cọng lại. Tao chỉ lo thằng mắc ôn mắc dịch nào nó bắt chước tao thuở trước, nó kiếm cớ đòi con nhỏ thưởng tùm lum. Bởi vậy tháng nào vợ chồng tao cũng lên thăm nó, tiếp tế tiền bạc cho nó ăn học. Con nhỏ lém lắm. Nó biểu tao với bả đừng qúa lo cho nó mà mau già, mau xuống sức; ở nhà cứ việc tẩm bổ rượu ngâm tắc kè, ngâm cá ngựa thoải mái, hết nó biểu mấy anh nó gởi về. Bởi vậy tao với bả mới khỏe như đất cục. Ai cũng lo giữ xuân sắc, lo ăn thịt chuột, thịt rắn cho cường tráng. Trời đất! Cái ông trung tá ốm nhom ốm nhách, hói đầu như bác học vầy đây mà cũng còn lo xuống sắc nữa sao. Té ra ông vẫn còn máu lắm. Ông chiếu ánh mắt sáng rực vào mắt tôi, nói rổn rảng: - Tao là thằng đẹp trai ngầm nghen mầy. Đờn bà con gái muốn biết tao đẹp, phải ăn đời ở kiếp với tao. Mầy thấy bả đẹp như bông súng trắng ngoài đồng không? Còn khuya mới tới màn da thịt trổ đồi mồi năm mươi nghen mầy. Hồi khó khăn chồng chất, tao nhờ mỗi ngày mỗi thấy bả đẹp lồng lộng mà đủ sức bươn chải vượt qua đói kém. Tao đào ao thả cá. Tao nuôi vịt hãng lấy trứng đem ấp bán vịt con. Tao tom góp tiền bạc mua đất lập vườn. Ở quê, chục công ruộng, hai chục công vườn như tao là vua nghen mầy. Giờ tao là tư lệnh khuyến nông của xã, là tư lệnh cựu binh của xã. Tụi nó phong tao hàm trung tướng. Trung tướng nhãn da bò. Tỷ như tao đeo theo đời lính cả đời, văn hóa ù lần như vầy, dễ gì có được hàm tướng nầy há mầy? Nói mầy biết, lính cựu tụi tao ở xã, cộng cả lính chống Pháp, chống Mỹ, chống Pôn Pốt, tất tật phải hơn một đại đội. Tao là trung tướng nhãn da bò, chỉ huy đại đội nông binh, chiến đấu lăn xả trên ao đìa, ruộng vườn. Hết ý lắm nghen mầy! Ở xã tao, giờ có bói cũng không kiếm ra một thằng cựu binh nào nghèo. Đứa nào nghèo là tụi tao kiểm thảo, bắt phải nhận vốn viện trợ, vốn cho vay, bắt phải trần lưng vật lộn với đất để làm giàu. Đang lai rai trò chuyện, thốt nhiên tôi nghe tiếng dê be be vọng tới từ sau nhà ông. - À quên. Để tao ới bả đem sữa dê tươi ra uống. Tao nuôi tới mười con dê sữa Hà Lan. Cái giống dê cái Hà Lan, con nào con nấy vú bự chần dần. Không biết đờn bà con gái xứ ấy ra làm sao, mà ti vi cứ quảng cáo rùm beng sữa cô gái Hà Lan ngon lắm. Con gái thì lấy đâu ra sữa! Mà đã có sữa thì còn gì là con gái nữa há mầy! Nhưng thôi, tới Ông Thọ còn có sữa nữa là! Trung tướng nhãn da bò phá ra cười. Nụ cười hết cỡ, trắng lấp lóa trên khuôn mặt đen sạm. Qủa thật, nhìn cách ông cười mới thấy ông đẹp- đẹp dễ dãi, đẹp thật tình, đẹp ngầm một cách gần gụi. Mở phanh áo ngực cho mát, phẩy tay một cái, trung tướng nhãn da bò nói rổn rảng như tiếng máy tàu nổ trên sông: - Mầy hay gì chưa? Đ.má mấy thằng Tàu chơi đểu. Kì này tao hú hết ba thằng con nhập ngũ, sung tên lửa, bắn nát đầu tụi nó. Cần thì tao cũng nhào ra Trường Sa ăn thua đủ với tụi nó. Đ.má quân Tàu khựa! Vừa ăn cướp vừa la làng! Hôm nay mầy ở đây với tao, tao kêu đám cựu binh tới, quậy tưng với nhau để nhớ thời xưa ấy! Tôi cười theo trung tướng nhãn da bò để ngắm nụ cười vui vẻ, trẻ trung, rất đàn ông của ông. Và tôi chợt nhận ra rằng, phía sau nụ cười ấy, là một trái tim người lính, vẫn còn đập sôi nổi nhịp thanh xuân tưng bừng rạo rực. H.T.T.

QUA CẦU CỞI ÁO TRAO NHAU thơ Hồ Tĩnh Tâm

QUA CẦU CỞI ÁO TRAO NHAU Hồ Tĩnh Tâm Nắng vàng rực đến ngỡ ngàng đến lạ Khi tôi về miền đất nhớ Trà Vinh Miền yêu thương miền thấm đẫm ân tình Bao năm tháng không bao giờ quên được Em thuở ấy trên quê nghèo Xẻo Đước Mái nhà tranh nép bóng rặng dừa xanh Con đò chiều manh áo bạc phong phanh Em chở cả hoàng hôn về bến đợi Năm tháng cũ bao nỗi niềm vời vợi Dòng sông dài thao thiết mãi không nguôi Cánh đồng làng mùa lúa chớm đỏ đuôi Hương nếp mới quẩn quanh niềm tâm sự Trưa rộng quá soi vào đâu quá khứ Cũng hiện về bổi hổi bến sông trăng Chạm vào nhau nghiêng câu lý bằng răng Căn nhà nhỏ rọi mù u rưng rức Trang giáo án và cơn ho trong ngực Em nhỏ nhoi như dấu cuộc đời Chấm vào tôi buốt nhói chẳng nên lời Dòng Cổ Chiên cứ trôi về biển rộng Trưa vọng cổ gió đầy trời lồng lộng Lời ca dao đau đáu nắng vàng gieo Mái tóc em bạc trắng nỗi gieo neo Cháy trong tôi bần thần ngày xưa ấy Vàm Cá Hóp đến bây giờ vẫn vậy Ngã ba sông căng ngực đợi nhau về Lý lu là lý vọng khúc phu thê Xao xuyến nắng Càng Long vàng như lụa Mùa dân dã có bao giờ héo úa Thôi qua cầu ta cởi áo trao nhau HTT

Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

CHUYỆN THẬT VỀ TRÁI TIM NGÀN NĂM TRƯỚC Hồ Tĩnh Tâm

CHUYỆN THẬT VỀ TRÁI TIM NGÀN NĂM TRƯỚC Hồ Tĩnh Tâm Chuyện kể rằng. Cách đây cả ngàn năm, ở làng tôi có người đàn bà điên, sinh hạ được đứa con trai, chẳng biết con ai, chỉ biết nó có gương mặt đẹp như Phật. Nhiều người thích, mốn xin về nuôi, ngặt nỗi ai cũng sợ, mẹ nó điên, lỡ sau này nó cũng điên như mẹ. Cuối cùng, làng phải cậy chùa làng nuôi nấng nó. Đứa bé lớn lên trong chùa, được chùa nuôi dạy kinh kệ, học tới đâu thuộc làu làu tới đó. Công việc hàng ngày của đứa bé là học kinh, học nấu các món chay và quét lá sân chùa. Ngoài các việc ấy ra thì nó vẽ. Nó dùng que vẽ xuống đất tất cả những gì nó nhìn thấy, từ ngôi chùa, ngôi nhà, đến cánh đồng, dòng sông, giếng nước, lũy tre làng. Nó vẽ đẹp lắm. Ai nhìn thấy hình nó vẽ cũng khen tấm tắc. “Thằng bé đúng là con nhà Phật”. Năm lên sáu, thằng bé biết dùng than vẽ lên các vật cứng, như chum vại, gốc cây, bờ tường. Năm lên mười, nó đã được giao vẽ tranh Phật cho nhà chùa. Năm nó mười tám tuổi, đã lớn thành chàng trai, nhưng nhà chùa lại không hướng nó theo nhà Phật, mà cho nó miếng vườn, thửa ruộng ra ở riêng, đặng sau này dễ bề lập gia thất. Chàng trai lúc này đã nổi tiếng khắp vùng, nhờ thông tuệ kinh kệ, nhờ có tài vẽ đẹp như được Phật tổ độ trì. Ngặt nỗi nghèo thì vẫn nghèo, nên không thể nào lấy được vợ như các trai làng. Chàng trai côi cút vẫn thui thủi một mình cấy cày kiếm sống, và dùng que vẽ lên đất những gì anh thấy. Vào một chiều mùa đông ảm đạm, chàng trai cảm thấy trống vắng, bắc ghế ra sân ngồi nhìn vọng ra cánh đồng. Thấy ngoài thửa ruộng có con cò mồ côi, chàng trai liền dùng cây vẽ xuống đất một con cò, khi chàng chấm mắt cho con cò, thốt nhiên hình con cò dưới đất vỗ cánh, rồi bay vút ra cánh đồng, sà xuống thành đôi với con cò mồ côi trên thửa ruộng. Ngạc nhiên vì phép huyền nhiệm, chàng trai liền đứng dậy, bước ra cánh đồng, khiến đôi cò vỗ cánh bay đi mất. Nhìn xuống dòng mương trước thửa ruộng, thấy có con cá chép ngước nhìn như van vỉ, chàng trai liền vẽ xuống đất con cá chép. Và khi chàng điểm nhãn, con cá dưới đất cũng quẫy đuôi rồi nhảy xuống mương, cùng con cá kia lượn một vòng rồi bơi đí mất. Quá ngạc nhiên, chàng trai trở lại sân nhà, dùng que tre vẽ xuống đất đàn gà, lúc điểm nhãn, cả đàn gà túc túc gọi nhau đỏ sân. Chàng vẽ tiếp đàn vịt, điểm nhãn xong, cả đàn vịt quạc quạc đòi ăn inh ỏi. Rồi chàng vẽ đàn bò, đàn trâu, cứ điểm nhãn xong con nào là con nấy hiện lên. Bấy giờ chàng trai mới chợt nhớ tới thân phận trống vắng của mình, bèn dùng tất cả thần lực, vẽ xuống đất một thiếu nữ, đúng như chàng vẫn hằng đêm mộng thấy. Khi đôi mắt tuyệt đẹp vừa vẽ xong, cô gái đã chống tay đứng dậy, dùng hai tay sửa lại xống áo, và nói với chàng, “thần thiếp xin được ở lại thủy chung cùng chàng suốt kiếp này”. Chuyện xưa cách nay cả ngàn năm, thực hư không biết thế nào, chỉ biết ở làng tôi, các bô lão vẫn thường dạy con cháu, hãy sống chân tình bằng trái tim, thì trái tim sẽ được đền đáp bằng trái tim. HTT

Thứ Sáu, 17 tháng 4, 2015

OAN HỒN CÔ GÁI TRẺ Truyện ma của Hồ Tĩnh Tâm

OAN HỒN CÔ GÁI TRẺ Truyện ma của Hồ Tĩnh Tâm Mùa đông năm 1971, tôi theo khoa Trắc Đạc lên sơ tán tại một xã miền bán sơn địa của huyện Phổ Yên – Bắc Giang. Đây là một xã nghèo xơ xác, nhà cửa nằm rải rác trên các sườn đồi bát úp. Nhà nào cũng chỉ lè tè bằng đất trình, mái lợp bằng cỏ tranh đánh thành tấm. Gia đình tôi trọ chỉ có hai bà cháu. Người bà khoảng hơn 80 tuổi, đôi mắt đã loà, lưng đã cụp xuống. Cô cháu dâu trắng trẻo, đẹp hây hẩy. Chồng cô đã vào chiến trường B gần một năm. Bấy giờ, cô là thư ký kế toán của hợp tác xã, nên ban ngày rất ít khi ở nhà. Bà già thì lúc nào cũng thui thủi ở dưới bếp, chuyên lo thái cây chuối, băm bèo cho lợn. Hai bà cháu sống ở cái nhà dưới, có hai buồng và một chái nhà làm bếp. Nhà trên là nơi thờ tự, không hiểu sao họ lại dành cho tôi và Quảng trọ. Ngay ngày đầu tiên đến sống, khi bước vào căn nhà ba gian ẩm thấp, có mùi mốc, tôi đã cảm thấy rờn rợn, như thể có gì đó ám theo mình. Tôi hỏi Quảng có cảm thấy điều gì bất ổn không, nó cười nhếch một cái rồi phẩy tay: Nhà này thuộc diện gia đình thương binh liệt sĩ, vì thế họ mới ưu tiên cho mình sống ở nơi thờ tự. Sau khi dọn dẹp xong chỗ ngủ ở gian nhà bên trái, Quảng nói: Mày ngủ trên bộ ngựa bên phải đó, gần với nhà dưới. Bây giờ tao phải đi Phổ Yên, có khi mai mới về, mày muốn ngủ chỗ của tao cũng được. Nó ném cho tôi gói thuốc Nhị Thanh, rồi hỏi mượn tôi cái xe đạp phượng hoàng. Tôi chưa kịp ừ hử thì Quảng đã nhảy lên xe đi mất. Lúc đó đã gần 11g00 trưa. Ở nhà chỉ có bà cụ già lụi cụi dưới bếp. Tôi xuống định bắt chuyện làm quen, nhưng hỏi gì bà cụ cũng chỉ hử hử, dướn dướn đôi mắt kèm nhèm, như cố nhìn cho được gương mặt của tôi nó ra làm sao. Chán quá, tôi đành bỏ lên nhà trên, lôi cái bánh mì không ra ngồi nhai trệu trạo. Vừa ăn tôi vừa nhìn lên bàn thờ. Trên đó có một người đàn ông rất đẹp trai, mặc áo trấn thủ, đội mũ có thắt những tua vải dù. Nhìn là biết ngay chồng bà cụ, liệt sĩ đã hy sinh trong trận phố Lu thời chống Pháp. Thấp một chút phía dưới bên trái, là hình một cô gái còn rất trẻ, mặt trái xoan, mắt buồn buồn, mái tóc cắt cum bê- kiểu tóc rất phổ biến ngoài Bắc lúc đó. Sau này tôi mới biết, cô chỉ mới mất chưa được hai tháng. Ai đó đã hãm hiếp cô trên đồi, khi cô lên đó nhổ sắn. Cô bị giết bằng một sợi dây thừng xỏ mũi trâu, to như ngón tay. Nghe nói người đó giết xong mới hiếp được. Như thế có nghĩa là cô vẫn còn trinh trắng cho đến lúc qua đời. Mà như người ta đồn, con gái trinh chết đi thì linh lắm. Nếu vì oan ức, nhục nhã, thì linh hồn rất khó siêu thoát, dù có cầu đảo thế nào. Đó là chuyện sau này. Còn vào buổi sáng đầu tiên ấy, tôi với Quảng không ai hay biết gì cả. Do vừa phải đi bộ dẫn chiếc xe đạp chất đầy va li, túi du lịch của bạn bè, suốt quãng đường từ trường đến nơi sơ tán xa mấy chục cây số, quá mười hai giờ trưa, hai mí mắt tôi sụp xuống, nặng như đeo đá. Cưỡng lại không được, tôi vác cái chõng tre ra ngoài hiên nằm ngủ. Vừa nằm xuống, lập tức tôi đã chìm ngay vào giấc ngủ mê mệt. Nhưng chỉ một lúc là tôi bắt đầu thảng thốt. Dường như có ai đó khiêng cả cục đá tảng đè lên ngực, khiến tôi không thở được. Tôi gắng dùng hai bàn tay đẩy tảng đá ra, nhưng dường như tay tôi còn nặng hơn cả đá, không thể nhấc lên. Tôi cố gắng nghiêng người lăn sang một bên, nhưng cũng không thể lăn được. Tảng đá cứ đè xuống. Đè xuống. Tôi vật vả ú ớ, muốn la lên, mà cũng không la được. Tôi cảm giác toàn thân như đang căng ra, đầm đìa mồ hôi. Thế rồi tôi chập chờn nhận ra, có một bóng người xẫm đen, nhoà nhạt, nhờ nhờ đứng dưới chân tôi, nắm lấy hai chân tôi kéo xuống. Sức kéo mạnh lắm. Mỗi lúc mỗi mạnh. Tôi quật sức ghị lại. Người đó mạnh hơn tôi. Người đó sắp kéo tôi tụt khỏi cái chõng. Tôi biết là phen này tôi sẽ bị kéo tụt xuống tận âm ti địa ngục. Bởi vì lúc đó đầu tôi rất tỉnh táo, mặc dù vẫn đang trong cơn hoảng loạn, căng cứng toàn thân. Là sinh viên, dù hoàn toàn tin tưởng vào khoa học, tôi vẫn buộc phải nhớ rằng, rõ ràng tôi đang bị ma đè, ma kéo. Ở quê tôi, bất cứ một người già nào cũng có cả lô cả lốc chuyện bóng đè rùng rợn. Tôi đã từng cười nhạo họ là nhát ma, nhưng lần này thì rõ ràng tôi đang bị ma đè thật sự, bị ma kéo thật sự. Nó đang kéo tôi thun thút tụt xuống. Tụt xuống. Có lẽ đã sắp đến âm ti địa ngục, bởi vì tôi đã nghe rõ từng cơn ớn lạnh, chạy rùng rùng dọc theo xương sống. Trong cơn tuyệt vọng cùng cực, tôi nhớ tới mẹ tôi. Mẹ tôi kể hồi trẻ mẹ đã từng bị ma dẫn lúc nửa đêm. Lúc đó trời chỉ sáng sao nhờ nhờ. Đang ngủ thì mẹ nghe ai đó gọi ngoài ngõ. Thế là mẹ thức dậy, tụt xuống giường bước ra theo tiếng gọi. Rồi cứ thế mẹ đi theo tiếng gọi. Băng qua cánh đồng ông Cả Hoa rộng tút tít. Leo lên bờ đê làng Hoàng. Tụt xuống bờ đê, băng qua bãi Sói. Rồi cứ nguyên cả áo xống mà lội xuống sông. Lội theo tiếng gọi văng vẳng thảm thiết. Đến lúc nước gần ngập tới ngực, thì may có người kéo vó đêm nhìn thấy, lội ra kéo vào. Sáng ngày cả làng ai cũng biết chuyện mẹ bị ma gia dụ xuống sông thế mạng. Là bởi ngay khúc sông tại bãi Sói ấy, cách đây mấy năm, có một cô gái bị chết vì lật thuyền nan. Năm nào cô cũng tìm cách dụ một người xuống thế mạng cho cô, để hồn cô được siêu thoát về trời. Nhưng chẳng biết tại làm sao, tới lúc bấy giờ, cô vẫn chưa dụ được ai. Mà chưa dụ được ai thì hồn cô không thể về trời. Bởi vậy cô sẽ còn phải tìm cách dụ người khác xuống sông chết nước thế mạng, đặng hồn cô thoát khỏi nơi lạnh lẽo. Dân làng ai cũng biết, nhưng ai cũng nghèo xơ xác, kiếm đâu ra tiền bạc cúng quẫy cho cô. Có thể vì không ám được mẹ tôi, giờ đây cô ta tìm đến kéo tôi xuống âm ti thế mạng. Sợ quá. Tôi hét váng lên: Mẹ ơi! Thế là tôi bừng tỉnh. Mồ hôi túa đầm đìa trên mặt. Lưng áo cũng ướt đẫm mồ hôi. Trời vẫn vàng vọt nắng. Hừng hực hanh hao trong giá lạnh Những thân cây đứng lả ra vì không hề có mảy may chút gió. Nghĩ tới bữa cơm chiều, tôi phải xuống bếp mượn bà chủ nhà cái nồi đồng, cái soong nhôm để nấu cơm, nấu canh. Quái lạ là cái bếp cũng âm u thế nào. Ngay cả khi ngọn lửa rơm đã cháy giần giật, tôi vẫn cảm giác chái bếp chật hẹp lành lạnh, và có vẻ thâm u nữa là khác. Đó là thứ cảm giác mà từ trước tới nay, bây giờ tôi mới gặp. Vừa đẩy rơm, cời tro, tôi vừa thắc mắc: sao cô cháu dâu bà chủ nhà tới giờ này vẫn chưa về. Bà cụ đã sắp tàn hơi xế bóng, sao cô ta dám bỏ đi cả ngày thế nhỉ? Lỡ bà cụ có bề gì thì… Nghĩ vậy nên lúc ăn cơm tôi có bưng một chén cơm, chén canh xuống kính cẩn mời bà. Bà xua tay lắc đầu quầy quậy. Phải tập trung hết mức tôi mới nghe được bà nói bà đã ăn sắn nướng, bà chờ đứa cháu về tới ăn với nó chén cơm luôn thể. Hơn năm giờ chiều cô cháu dâu mới về. Cô ta đẹp hơn tất cả những gì tôi đã tưởng ra. Da trắng hồng, màu nước da của các cô gái Thái. Môi mọng và đỏ như ớt chín, kiểu môi của con gái H’mông. Đôi mắt to, đen, sâu thăm thẳm, giống mắt con gái Cầu Lim xứ Quan họ. Mái tóc dày óng ả, chảy xoã sau lưng như suối. Thân hình khoẻ căng, vun vút những đường cong lìm lịm. Tôi có cảm giác ngực và mông cô ta to khác thường. Hừng hực sinh lực của một sức lửa luôn ngún cháy. Nó luôn xui khiến tôi dại dột và tò mò nhìn trộm. Cô gái có vẻ đoán biết được tâm trạng của tôi, cô nói: - Xã người ta báo có hai người cơ mà! Bạn em đâu? Tôi nói với cô là Quảng ra thị trấn thăm bạn, có thể đêm nay chưa về. Cô ta nhìn tôi, cười và nói: “Ngủ một mình ở nhà trên, em có sợ không?”. Chỉ có thế. Rồi thì cô ta xuống bếp ăn cơm. Ăn xong thì ngồi ngay ngạch cửa hát bài “Trai anh hùng gái đảm đang”. Sau đó cô vào buồng thắp đèn ngồi tính toán sổ sách gì đó cho hợp tác xã. Phần tôi, tôi cũng ngồi xuống bên cái bàn gỗ lim đen bóng, thắp ngọn đèn dầu Hoa Kỳ ngồi đọc sách. Tôi đọc cuốn “Ai Van Hô”, vì chẳng có bài vở gì để học, do cả tuần qua, khoa Trắc – Đạc của chúng tôi chỉ rục rịch lo chuyện sơ tán. Nhưng đêm nay, nàng Rê Béc Ca xinh đẹp và đau khổ trong tuyệt vọng không còn hấp dẫn được tôi. Tôi nhìn như lướt trên những trang sách. Các dòng chữ nối nhau chạy luống cuống như thể đang bị ai đó rượt đuổi và đe doạ. Đến đoạn Rê Béc Ca bị trói trên dàn hoả, thốt nhiên tôi thấy có hơi gió thổi lạnh buốt sau gáy; toàn thân ngây ngấy, tê rần từ hai bên thái dương, từ sau gáy, xuống tận gần hai gót chân. Dường như có ai đó đứng sau lưng tôi, nhìn qua vai tôi để đọc cuốn sách của tôi. Cảm giác ấy càng lúc càng mạnh, khiến tôi bị co cứng mọi cơ bắp; người cứng đơ ra như một con cá đang bị ướp bằng nước đá. Dù không dám nhìn, tôi vẫn đoán biết chắc chắn người đứng sau lưng tôi là một cô gái. Toàn thân cô đang phả ra mùi và màu của giá lạnh. Thon thót. Thon thót. Thế rồi, không biết từ đâu, có hai giọt nước rơi xuống trang sách, đúng ngay chữ Rê Béc Ca. Tôi rùng mình hoảng loạn. Người tôi căng cứng, da mặt se thắt lại, lấy đâu ra mồ hôi. Hai mắt tôi cũng ráo hoảnh. Vậy thì hai giọt nước ấy ở đâu? Tại sao chúng lại rơi ngay vào tên người thiếu nữ Di Gan bất hạnh? Phải chăng là thế lực huyền bí ở cõi âm sau lưng tôi đang khóc? Phải chăng oan hồn của cô gái bị xiết cổ bằng sợi dây thừng trên nương sắn đang đứng sau lưng tôi. Đang cùng đọc trang sách với tôi? Run lên vì hoảng loạn, tôi leo lên bộ ngựa, kéo tấm chăn dạ Nam Định, trùm kín từ đầu đến chân. Bóng tối trùm lấy tôi đen đặc. Tôi cố ru mình vào giấc ngủ, nhưng hai mắt vẫn mở thao láo. Rõ ràng là tôi thấy bóng tối đang chuyển động. Từng vạt, từng vạt đen ngòm đang chuyển động. Rùng rùng. Cuộn xoáy. Những sắc đậm nhạt của bóng tối vần vũ như ra sức lôi tôi vào thế giới miên tưởng. Tôi thấy mình trôi đi hun hút, tuồn tuột, trên con đường hoang vắng dày đặc cỏ may, thoảng mùi tanh tanh của máu. Văng vẳng dọc hai bên con đường vô định ấy, có vô vàn những tiếng khóc thê thiết của các âm hồn. Chúng hoà vào nhau. Quyện vào nhau. Rất rõ, nhưng cũng rất mơ hồ. Chúng như hùa vào với nhau, lôi kéo tôi, nuốt chửng tôi. Chúng khiến tôi bấn loạn và bại liệt. Chúng dìm tôi vào giấc ngủ thiêm thiếp, mê lịm, ướt rịn mồ hôi trong buồng tim, lá phổi. Sáng ngày thức giấc, người tôi gặp đầu tiên là Xoan, cô cháu dâu của bà chủ nhà lụm cụm. - Em lạ chỗ không ngủ được à? Mới một đêm mà đôi mắt quầng thâm, trủng sâu như hai lỗ đáo thế này. Xuống bếp ăn ngô bung với chị đi! Có muối vừng và mấy con cá quả kho mặn. Cá chị bắt dưới chân ruộng, gần cầu đá, chỗ có cây gạo to nhất làng, ngon lắm! Tôi tìm cách thoái thác lời mời, viện cớ là phải tìm đến nhà mấy đứa bạn cùng lớp đang trọ, hỏi xem lúc nào Khoa tổ chức học trở lại. Và tôi đã đi thật. Tôi đi đến xế chiều mới về. Lúc trở về, rất tình cờ tôi đã đi băng qua đỉnh đồi, rồi từ trên đó đi xuống theo nương sắn, nơi cô cháu bà chủ nhà bị hiếp và bị xiết cổ bằng sợi dây thừng cho đến chết. Ở đó tôi đã gặp ngôi mộ của cô. Một ngôi mộ đắp bằng đất, khô rang, chưa có một đám cỏ nào mọc lên. Chính giữa ngôi mộ có chất mấy viên đá tròn to như nón cối của bộ đội. Nắng quái chiều hôm đỏ đòng đọc, chiếu xiên vào nấm mộ, đượm một màu tang thương, lạnh lẻo; tất cả toát lên sự trống vắng lạnh lùng. Đứng trước khung cảnh rợn ngợp này, không hiểu vì sao tôi nghĩ: có lẽ mình phải xin chuyển nhà thôi, mình không thể trọ được trong ngôi nhà đang bị ma ám. Quảng vẫn chưa về. Vậy là tôi lại phải nấu lấy cơm và ăn cơm một mình, lại phải một mình trước cái bàn thờ có cô gái trẻ lúc nào cũng nhìn xuống tôi chòng chọc, ám ảnh tôi bằng những suy nghĩ không thành ý tưởng. Chiều đó tôi chuẩn bị sẵn chỗ ngủ cho mình, bằng cái chăn dạ của tôi, cọng thêm cái chăn dạ của Quảng; cả hai cái chăn ấy tôi trải sẵn trên bộ ván ngựa, định bụng lúc cần chỉ chui vào là có thể ngủ ngay được, chẳng cần phải mất công làm thêm bất cứ một động tác gì. Nhưng thật kỳ lạ, khi tôi đang ngồi đọc sách bên cái bàn gỗ đen bóng, dường như tôi thấy hai cái chăn của mình có vẻ như lùm lên, có vẻ như đang nhúc nhích, làm như có người đang nằm trong đó. Một lần. Hai lần. Ba lần nhìn vào cái chăn tôi đều có cảm giác như vậy. Để tránh nỗi ám ảnh, tôi cuộn cả hai cái chăn lại. Trời ạ! Khi chạm vào cái chăn, tôi tưởng như tay mình đang chạm vào băng giá, ớn lạnh rùng rùng. Và càng khủng khiếp hơn, khi tôi buộc phải đi ngủ, buộc phải đắp lên mình cả hai cái chăn ấy, tôi không hề thấy ấm áp như mọi lần, mà chỉ thấy giá lạnh phả ra nhon nhót. Thế rồi trong lúc chập chờn bởi tự kỷ ám thị, tôi cảm giác như có ai đó đang nằm sát bên tôi, thở ra mùi chết chóc. Cảm giác ấy càng lúc càng rõ, nó khiến tôi căng cứng toàn thân, từng lỗ chân lông như mở hoác cả ra. Người run bần bật. Sợ quá, tôi vùng ngồi dậy, bước đến bên cái bàn, vặn thật to ngọn đèn dầu hoả. Ngọn đèn cháy đỏ đòng đọc, muội khói bay lên đen sì sì, uốn éo thành những hình kỳ quái. Hoa đèn toé ra những ba cục than hồng. Điều đó khiến tôi không thể tập trung được tư tưởng, nhất là khi tôi bắt đầu cảm giác có người nào đó đứng ở sau lưng, nhìn qua vai tôi xuống cuốn sách. Cảm giác ấy giống hệt như cảm giác đêm đầu tiên tôi ngồi đọc cuốn Ai Van Hô của Oan Tơ Scôt. Tôi đã ngồi chết cứng như vậy hàng giờ. Cho đến lúc kiệt sức, gục xuống ngủ ngồi ngay bên cái bàn gỗ lim đen bóng. Chập chờn trong cơn mê lú, tôi thấy có bóng người nhờ nhờ, lãng đãng nơi ngạch cửa, ngoắt tay vẩy gọi tôi ra ngoài. Nghe rõ tiếng kẹt cửa rít lên khe khẻ, rồi một làn gió lạnh lùa vào. Hu hú hu hú. Trùm kín người bằng cái chăn dạ, tôi nhón gót bước theo cái bóng như xa như gần ấy; và cứ thế lặng lẽ bước âm thầm theo nó. Bấy giờ tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài cái bóng nhờ nhờ, bước hụp hửi là đà trên mặt đất. Tai nghe văng vẳng những tiếng gọi thê thiết. Toàn thân căng cứng sự ớn lạnh. Cái bóng hư ảo dẫn tôi lên đồi sắn, đến ngay chỗ nấm mộ, xúi tôi ngồi xuống, trùm cái chăn lên đó. Rồi tôi thấy tôi đứng dậy, đi ngược trở lại về nhà. Tiếng kẹt cửa rít lên khe khẻ. Tôi thấy tôi trở lại bộ ván ngựa của mình. Một ánh sáng chói loá đập vào mắt. Và rồi tôi không còn hay biết gì nữa, cho đến lúc tôi giật mình thức giấc. Trời ạ! Không phải tôi đang nằm trên bộ ván ngựa của mình. Rành rành là tôi đang nằm trên cái giường đôi, đang nằm trong tấm chăn bông vải chéo hoa màu đỏ của cô cháu dâu bà chủ nhà. Hơi hướm phụ nữ vẫn còn ấm sực trong chăn. Run sợ như kẻ tội đồ, tôi rón rén đẩy cửa bước ra ngoài. Mặt trời đã lên cao cỡ cây sào, toả chiếu ánh sáng nhợt nhạt mùa đông. Bà cụ mù loà đang đứng ở góc sân, rắc từng vụm ngô xay cho bầy gà chíu chít. Cô cháu dâu đang nấu gì đó trong bếp. Khi cô bước ra, tôi thấy cô cười rất tươi. “Đêm qua em bị mộng du đấy. Chị đi trực về, thấy em cứ đi lòng vòng ngoài sân, nên chị đã dẫn em vào buồng của chị. Thú thật, hồi mới về nhà này, ngủ một mình trên ngôi nhà thờ tự ấy, chị cũng từng mấy lần mộng du, cứ quá nửa đêm là bước ra ngoài đi lang thang. Khi cô ấy qua đời, sợ quá, chị phải dọn hẳn xuống dưới này với bà”. Tôi không biết chuyện gì sẽ còn xãy ra trong ngôi nhà ấy, bởi vì trưa hôm sau Quảng về tới, nó rủ tôi chuyển xuống trọ trong một ngôi nhà gần bờ sông Công, gần với khá đông bạn bè cùng lớp đang trọ ở những nhà xung quanh. Có thể đây không phải là chuyện ma, mà chỉ là ảo tưởng về ma, do tôi đã phải sống một mình hai đêm liền trong ngôi nhà trống vắng, lạ lẩm, giữa một mùa đông hun hút gió bấc thở dài sườn sượt trên các triền đồi. Nhưng rõ ràng cảm giác có người kéo tôi xuống vực sâu tuồn tuột, có người đứng sau lưng tôi, nhìn qua vai tôi đọc sách, có người đã chui vào nằm trong chăn với tôi, có người đã ngoắt gọi tôi ra ngoài đi lang thang, thì tôi không bao giờ quên được. Lại còn cái chăn chiên Nam Định, rõ ràng là tôi đã đắp lên nấm mộ của cô gái trẻ trên nương sắn. Cái chăn ấy, khi đem về nhà trọ, tôi đã phải dùng cái nồi đồng ba mươi, luộc lên bằng nước lá bạch dàn cả tiếng đồng hồ. Sau này, khi đã chuyển đến nhà trọ khác, nhiều đêm liền tôi vẫn bị ám ảnh bởi có người nào đó đang đứng lặng lẽ sau lưng, lặng lẽ nhìn qua vai tôi xuống những trang sách của tôi đang đọc. Người đó, phải chăng là oan hồn của cô gái trẻ? HTT Nói thêm với bạn đọc: Quảng là bạn thân thời tôi còn học ở Đại học Mỏ - Địa chất tại Phổ Yên- Thái Nguyên. Trong blog này, các bạn có thể thấy một số truyện ngắn tôi nhắc tới Quảng, như truyện "Nụ hôn rướn mình qua cổng rào với Phụng". Sau năm 1980, Quảng về làm Trưởng phòng Giáo dục Chính trị của Trường Trung học Lâm nghiệp Thuận Hải (nơi có thuốc lá Vĩnh Hảo nổi tiếng). Chính Quảng xúi tôi đổi nhà trọ, vì Quảng muốn trọ gần nhà trọ của Phụng, mà Phụng lúc đó lại chí thiết với tôi, bởi tôi biết chơi ghi ta, thổi armonica dập tông bá cháy. Tại nơi sơ tán ngắn ngủi này, thời gian tuy ngắn, nhưng chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm với nhau- vì lúc đó chúng tôi dường như chẳng học hành gì cả trong gần một tháng. Nhàn cư vi bất thiện. Tiền nhân dạy vậy.

Thứ Tư, 15 tháng 4, 2015

Ông Cố Hoạch truyện ngắn của Hồ Tĩnh Tâm

Truyện ngắn: ÔNG CỐ HOẠCH Hồ Tĩnh Tâm 1. Không biết đứa nào lại nghĩ ra cái tên kì quặc: Ông Cố Hoạch. Đã cố lại còn ông. Cố phải hơn ông tới một sợi dây thừng tuổi ấy chứ. Tám Bỉnh nhớ, hồi nhỏ bà cụ cố dặn: ra đường, hễ ai hơn mình trên hai con giáp, mới gọi chú hay bác; còn dưới hai con giáp, tuốt tuột đều là anh hoặc chị. Ông cố hơn bà cố tới hai chục tuổi, thì cũng là anh với em lúc trẻ, ông với bà lúc già, sanh ra cả đại gia đình họ Phạm, trấn giữ cả vùng cửa sông. Có sao đâu nào. Ông Cố Họach, nghĩ mắc cười. Không biết vì cơn cớ gì, ở làng Vàm, đàn ông ai cũng có tục danh. Chú Sáu của Tám Bỉnh, lúc nhỏ, không hề một chữ lận lưng, nhờ có khuôn mặt trắng trẻo dễ thương, được cả làng gọi là thằng Tú, tức là thằng khôi ngô tuấn tú. Sau lớn lên đi lính dõng, trèo lên được chức đội, vậy là có tên ông Đội Tú. Tên tủng chẳng ra gì, ra đường gặp ai cắc cớ, họ cứ nói lái ngược lại, vậy mà chú Sáu mặt lúc nào cũng vênh lên: “Kiếng tui là Đội Tú, còn kêu ca chọc chủng cái nỗi gì. Đội Tú đấy, bàn ngày đây còn công việc nhà nước giao phó bộn bề, bàn đêm mới có thời gian để giã gạo chứ. Đây là Đội Tú đấy!”. Nhiều hôm chú nhậu say khướt về nhà, vợ không cho lên giường, chú cứ trần như nhộng dưới trăng, rượt thím Sáu chạy lòng vòng có cờ quanh nhà. Sau cùng, chú túm được cái đũng quần dây chun của vợ, kéo tuột luốt, thím Sáu đành thất trận nhảo vô buồng. Chừng đó chú Sáu mới dịu cơn, đứng giữa sân, huơ huơ cái quần trên đầu, như một chiến tích thắng trận của tướng cướp quân cờ đen. Rồi thì chú khật khưởng mò vào. Rồi thì chú mệt quá, say quá, lăn ra khò một mách tới sang, quên cả chuyện rượt vợ đòi giã gạo. Về tục danh, chú Sáu còn phải bái phục mười lần ông Tư Đạo. Ông thứ tư, theo đạo bùa gì đó, thường đốt giấy vàng mã, lấy tro cho vào tộ nước, ngửa cổ uống ừng ực làm phép. Người làng đồn thổi, Tư Đạo học võ bùa. Tư Đạo cười khùng khục: “Bùa chú cái ôn hoàng, tao to đầu Đại Gáo, tao đạo gái, không thấy đầu tao bự chần dần vầy à”. Quả thật Tư Đạo đầu to khác người. Trong đó chất tầng tầng lớp lớp tị hiềm, nhỏ nhặt, thù vặt, tham thố, mưu mẹo, với không biết bao nhiêu giống ôn hoàng dịch dọc gì ở trỏng, mà tới đâu bàn dân cũng rủa “đồ ăn không chừa cặn”. Đạo gái đích thị là đại gáo. Có cái đầu to khác người, thì khác người cũng là điều bình thường. Lấy vợ người ta không được thì thù chồng người ta. Lúc Tư Đạo leo lên được cái ghế chức sắc ở làng, giữ chân Quản học, không biết bao nhiêu đàn ông, đàn bà trong làng khốn khổ tới không ngóc được đầu vì Tư Đạo. Nhiều người cùng cực, chửi độc: “Cứ ngửa bàn đèn cho đồ chó nó châm điếu thuốc phiện, mất miếng thịt nào mà tiếc. Rồi thì nó cũng chết ngập mặt chỗ đó!”. Ấy là tục danh. Còn như Ông Cố Hoạch thì quả là khó hiểu. Ông Cố Hoạch chỉ bằng tuổi Tám Bỉnh, lại cũng họ Phạm với nhau, cũng là cánh trẻ trâu hồi nhỏ, cũng trửng giỡn đình miếu tưng bừng hồi nhỏ. Có điều, bà cụ cố nói với Tám Bỉnh: mầy họ Phạm là họ Phạm, còn nó họ Phạm là họ Trần, tổ của nó là Trần Cư, tức thuộc dòng cư dân họ Trần chạy vô lánh nạn, phải hèn hạ cải họ cả dòng tộc. Bấy giờ Tám Bỉnh với Ông Cố Hoạch cùng là binh bét được cử đi học trường bổ túc văn hóa. Lính tráng mấy năm, đứa nào cũng ghiền thuốc. Thứ thuốc đen vấn tay, bán từng bó hai chục điếu, hút có mùi khét, nghe đau xóc cần cổ, nhưng với học viên, không phải lúc nào cũng sẵn. Hoạch thuộc dân ghiền nặng, gặp ai cũng xe xe hai đầu ngón tay: “Cho xin hơi coi!”. Được cả điếu, Hoạch ngửa cổ, cười tít mắt, cảm ơn rối rít như con nít. Được người ta cho ké rít vài hơi đỡ ghiền, Hoạch chỉ rít một cái đã hết cả lóng tay, tàn đỏ rực như hòn than. Ai cũng biết Hoạch dấu thuốc ở trong người. Anh ta mắc tật, cứ mua thuốc xong là xé lẻ, phân tán túi trên túi dưới; nhét cả trong từng cuốn sách; nếu ở trong phòng ký túc, thuốc còn được Hoạch phát tán, ém nhẹm trong kẹt giường, trong vách lá, trong tấm đắp cuộn ở đầu giường. Thấy Hoạch ki bo quá, bạn bè thường nói: “Mầy ông cố nội người ta vừa phải thôi, tới thuốc đen cũng kiết”. Có thể tên Ông Cố Hoạch là do đó mà ra. Chứ thực tình, năm đó, Ông Cố Hoạch chỉ mới hăm tám, người cao lỏng khỏng, tiền bạc cũng không đến nổi nào, râu ria thì bói cả ngày cũng không ra một cọng, mặt cứ nhẳn bong như cái ấy của con nít. Người làm sao tào hao làm vậy. Tới ăn uống, Ông Cố Hoạch cũng khác người. Bao giờ cũng cà rịch cà tang, đi sau bạn bè cả vài điếu thuốc. Là anh ta không muốn ngồi chung với ai. Gắp nhiều sợ bị chê, gắp ít sợ bị thiệt; anh ta cứ phần ai nấy hưởng, khoản ăn uống là phải sòng phẳng. Nợ miệng điếu thuốc không sao, nợ miếng thịt heo, mắc nghèo danh giá. Chỉ khoản xin thuốc thôi, cũng đã là ông cố nội rồi, thêm khoản ăn chực, ăn ké thì còn ra làm sao. Hoạch không ăn ké ai, thì cũng không ai ăn ké được Hoạch. Học tới mười giờ đêm, đói bụng, Hoạch nấu cả lít gạo, hấp thêm hột vịt dầm nước mắm, cứ một mình ngồi chắp bằng trên giường, đủng đỉnh và từng chén cơm; bấy giờ, thế giới chỉ còn có Ông Cố Hoạch. Một hôm, lối chín giờ tối, có người nhắn tin Tám Bỉnh, nhờ đi nói giùm cho Ông Cố Hoạch một tiếng. Ra là vì cái sự nhục ăn cắp quần của người khác. Ông Cố Hoạch tắt mắt rút quần của người ta phơi ngoài dây, bị người ta túm được, sỉ vả cho một trận ra trò. Chỉ là cái quần vải săng gai, may ống bát bành bành. Đáng là bao mà Ông Cố Hoạch thọ nạn ngang xương. “Mầy làm mất mặt họ Phạm vừa thôi. Cái quần vải thô là thứ gì”. “Tao có định chôm chỉa gì đâu, chỉ tại cái tay tự nhiên quơ trúng, làm rớt trên đầu, bực quá thì túm lấy. Mới đi vài bước, mấy thằng khỉ chạy theo chửi bới. Tụi nó đông, sợ bị đánh nên tao ớ lưỡi. Cám ơn mầy nói giùm! Bữa nay tao khao chuối nếp nướng”. Ây da, Ông Cố Hoạch mà chịu móc hầu bao khao chuối nếp nướng, là nguyệt thực tới nơi rồi, không tàu bay rớt xuống biển, thì cũng tàu hỏa lao xuống vực. Ông Cố Hoạch thường lỉnh đi ngồi học một mình. Tám Bỉnh biết chỗ đó. Là ngôi nhà hoang, chìm giữa um tùm cây trứng cá và cỏ nhám. Thứ cỏ lá sắc như dao mà có gai như răng cưa, cứa vào da thịt là bật máu, rát như xát ớt. Mùa mưa lại còn thêm nước tèm nhẹp. Chỉ có ma mới ngu mò ra đó ngồi học. Nhưng Tám Bỉnh đã một lần đi tìm Ông Cố Hoạch nên biết. Ngồi trên bục cửa sổ, nhìn xuyên qua đám lá trứng cá, thấy ràng ràng dãy cầu cá nữ cất day lưng lại. Mấy miếng tôn che cầu cá thấp lè tè, cô nào leo lên, trước khi ngồi xuống hay đứng dậy, cũng phơi ra lồ lộ hai bàn mông trắng ởn. Không ai ngờ Ông Cố Hoạch đang ngồi học trong tiếng thả bom lủm tủm của họ. Không phải Ông Cố Hoạch đạo gái như ông Tư Đạo ở làng. Cũng không phải chả tò mò nhìn trộm. Chỉ đơn giản Ông Cố Hoạch thích trốn ra đó, để được ăn những trái chuối, những củ mì một mình, không bị ai ké vào. Cái pháo đài hoang ấy là nơi làm tình của mèo chuột. Mèo và chuột thật sự, chứ không phải mèo chuột của người. Vậy mà hôm đi tìm Ông Cố Hoạch về gặp người nhà lên thăm, Tám Bỉnh bắt gặp dưới nền xi măng ẩm ướt có manh chiếu cũ rách, nhầy nhụa mấy cái bao cao su nhớt nhờn nhợt, dúm dó ở góc nhà. Pháo đài của Ông Cố Hoạch vậy là tiêu. Đã có chuyện mèo chuột của người một lần, tất phải có lần khác, lần khác nữa. Ông Cố Hoạch cười khùng khục: “Thằng Chín Thù Thì với con Hường Ngứa chứ ai. Tao rình quay phim được mấy lần. Tính bữa nào hù cho một trận để ăn chia. Tụi nó có yêu nhau con mẹ họ gì đâu. Có chồng có vợ cả rồi. Đi học xa nổi ngứa thì tửng lên, gải với nhau cho đã ngứa, vậy mà còn hèn, còn phải mặc áo mưa. Chỉ tao với mầy là ngu. Vậy mà cũng đòi là Tám Bỉnh”. 2. Hết cấp ba, Ông Cố Hoạch xin về huyện làm việc ở ngành kinh tài. Cái tính ki bo của chả, nghề này là hợp hơn cả. Một đồng một cắc cũng không thể sơ sẩy được. Nếu huyện có thất thoát đồng nào, thì chắc cũng chỉ một mình Ông Cố Hoạch xơ múi tí chút hút thuốc, chứ người khác thì đừng có mà hòng. Chả tính toán răng rắc từng con số, chả tỉ mẩn từng con số, ai mà qua mặt nổi. Với nữa, chả cũng chẳng có nhu cầu gì, ngoài mấy điếu thuốc đen, ngoài cái bụng chỉ đói cơm trắng với hột vịt. Vậy mà đùng một cái, Ông Cố Hoạch phải trồi mặt về tỉnh. “Tao ngu mới ra nỗi này. Mình không ăn, tụi nó ăn sao được; ăn không được thì tụi nó phải tống khứ tao khuất mắt. Kỳ này, dẫu có phải ra gác cổng, tao cũng tìm mọi cách để ăn. Ăn như cá tra mới mau lớn”. “Gác cổng chan chát ngày phơi nắng hai buổi, ăn được cái nổi gì mà ăn”. “Nói là nói vậy, chớ không phải vậy đâu mầy. Cứ chờ đó rồi coi”. Tám Bỉnh không phải chờ lâu. Hai năm sau có tin nhắn, Ông Cố Hoạch đã phải về làng Vàm trồng khóm. Lại ngu nữa rồi. Cũng tại cái tật hút thuốc lẻ, cái tật xe xe hai đầu ngón tay xin thuốc người ta. Ki bo vậy, làm lớn sao được. Ngồi gác cổng mà nhớ từng người đi trễ mấy phút, về sớm mấy phút, vác cái gì ra khỏi cơ quan. Đến chuyện nửa đêm sếp vác vợ người ta vào phòng làm việc mà cũng biết, chết đứt đuôi con nòng nọc là đáng kiếp. “Tao biết ngậm miệng ăn tiền, nhưng hàm răng tao vổ, nó hở ra hồi nào đâu có hay. Hôm trời mưa, ngồi trực đêm thèm thuốc, tao cạy cửa văn phòng giám đốc chỉa gói thuốc, ai dè gặp ổng với con mẹ Tuất Ngựa nằm ăn táo cấm vườn địa đàng với nhau ở trỏng. Tay tao cầm gói ba số, còn thanh minh thanh nga nước non gì nữa. Mẹ con đĩ bà chúng nó. Chúng nó ăn thịt nhau hồng hộc thì hổng sao, tao ăn có gói ba số thì bị tống cổ”. Tám Bỉnh lắc đầu ngao ngán. Nhưng Ông Cố Hoạch lại chỉa hàm răng vổ ra, cười sáng lóa: “Có là cái quái gì! Mất tên Ông Cố Hoạch, nhưng tao thành danh thằng Bảy Khóm. Khóm là thơm đó mầy. Giờ trắng tay sạch bách, vợ con bán xới xứ người, tao thơm một mình tao cũng sướng chán vạn đời!”. Vâng, đời Ông Cố Hoạch đã thơm, nhưng đâu phải thơm một mình. Ông Cố Hoạch lên hương cùng đứa con gái bán vé số dạo, chốp được ở ngoài đường. Con nhỏ mới chừng xấp xỉ hai mươi, thua Ông Cố Hoạch hơn 30 tuổi. Chênh lệch bằng trời, nhưng cũng có là gì. Luật hôn nhân đâu có quy định khoản tuổi tác. Ông Cố Hoạch rước được con nhỏ ngoài đường về trồng khóm, coi như cứu nó khỏi giang đầu trần mưa nắng sớm chiều. Với nữa, cóc cách cọc cạch vậy mà lại hay, bởi Ông Cố Hoạch chăm nom bảo bọc nó như con, còn nó thì răm rắp nghe lời Ông Cố Hoạch cun cút như chó con nghe lời chủ. Đến cả cái khoản ấy cũng ngoan ngoãn nghe theo mới lạ chứ. Một lần Bỉnh chạy xe mấy chục cây số đến ruộng khóm thăm Ông Cố Hoạch. Thấy cửa nhà trống lổng, nghĩ Ông Cố Hoạch ở ngoài ruộng khóm, Bỉnh liền mò đi tìm. Đi mãi tới lút ruộng khóm thì gặp ngay cảnh Ông Cố Hoạch đang giã gạo với con nhỏ dưới mí rặng tràm chắn gió ở bờ bao. Ông Cố Hoạch nằm dưới đất, con nhỏ thượng bên trên. Cả hai thòi ra bốn cái ống chân nhem nhuốc bùn sình, ngay bên cạnh cái chậu thau đựng cả đống cá. Bên cạnh họ, cách khoảng một mét, con chó phèn ngồi chống chân, lưỡi thò ra, nhểu ròng ròng nước miếng. Không biết con chó ngồi chiêm ngưỡng cảnh thần tiên, hay ngồi canh chừng, bảo vệ cái quần xà lỏn của ông chủ vứt đè lên cái quần nái đen của bà chủ trẻ. Đứng nép bên gốc mít chờ hoài, hổng thấy Ông Cố Hoạch bị cối gạo giã xuống hùm hụp buông tha, sốt ruột quá, Bỉnh phải đánh tiếng, gọi um lên. “Cố Hoạch, Ông Cố Hoạch ơi, mày đang làm gì ở đâu vậy?!”. Chừng đó hai người nghe con phèn sủa quá chừng, mới buông nhau ra, mới xỏ bốn ống giò lấm lem bùn sình, vô bốn cái ống quần dài ngắn khác nhau. Rồi thì tiếng Ông Cố Hoạch cất lên sang sảng. “Bỉnh hả mầy. Đứng yên đó đợi chút đi. Tao đang tát cá”. Tát cá cái nỗi gì há trời. Ràng ràng cái ao ở trên cái gàu sòng đó thôi. Đến chừng nhậu với nhau đã ngà ngà, nghe Bỉnh chê cảnh hai người sướng với nhau mà làm biếng không chịu cởi áo, Ông Cố Hoạch phát cười khà khà. “Vậy là mầy đứng rình quay phim tụi tao phải hông? Mầy thấy tự nhiên giữa thiên nhiên có đúng là đã hông?”. Biết nói sao nữa. Dẫu hổng cưới xin, cả hai cũng đã là vợ chồng. Vợ chồng thì nổi hứng thích lúc nào, cứ công khai mà thích. Đụng trận kiểu đó, chỉ Ông Cố Hoạch, mới đáng mặt đã cố lại còn ông. 3. Dài dài chuyện ngộ kì đời của Ông Cố Hoạch còn nhiều chuyện lắm. Vốn là bạn nối khố với nhau đã nhiều năm, Bỉnh có cả hàng đống, kể cả ngày cũng không hết. Mà những chuyện Bỉnh chưa kể về Ông Cố Hoạch, càng về sau càng hay hơn, càng đã hơn, càng mức gân hơn. Nhưng của ngon thì phải để dành. Ai muốn nghe thêm, Bỉnh uỵch tẹc luôn. Cứ mỗi chuyện hạng ba, phải khao một chầu cà phê. Còn muốn nghe chuyện hạng nhất, dứt khoát phải một chầu nhậu tới bến. Khao chuối nếp nướng như Ông Cố Hoạch ngày xưa thì… chịu khó nghe chuyện lá cải vậy. H.T.T.